Văn Võ
Điệu hò
kéo lưới
của cư
dân miền biển Đà Nẵng
Vùng duyên hải Đà Nẵng, dọc theo bờ biển từ Nam Ô đến Thanh Khê, từ Sơn
Trà đến Ngũ Hành Sơn có nhiều loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian khá đặc
trưng của ngư dân như: Lễ hội Cầu Ngư, Hò chèo thuyền, Hò đua thuyền... trong
đó điệu Hò kéo lưới (còn gọi là Hố giựt chì), rất gắn bó với cư dân miền biển
Đà Nẵng từ xưa tới nay.
Trong dân gian miền biển Đà Nẵng có câu ca dao:
Ra đi sóng biển mịt mù
Trời cho lưới nặng, dô hò (ta) kéo
lên
Câu hát này khắc họa tâm trạng của ngư dân sống bằng nghề đánh bắt thủy
sản trên biển cả, làm ăn vất vả, nhọc nhằn lênh đênh giữa biển cả mênh mông
suốt ngày này qua tháng nọ, ra khơi mịt mù không biết thả lưới nơi nào dể bắt
được nhiều cá, ngoài việc cầu mong cho may mắn, họ còn vận dụng kinh nghiệm
nghề nghiệp để tìm luồng nước mà thả lưới bủa vây đánh bắt cá, tôm, cua, mực...
Ngày xưa vì điều kiện thuyền bè còn thô sơ, chưa hiện đại, nên chỉ đánh
bắt gần bờ, thường thì họ lên thuyền ra đi vào buổi chiều, mang theo các ngư cụ
chuyên dụng và chút ít lương thực, chuyến đi phải đối phó với nhiều thử thách
gian lao giữa nghìn trùng sóng nước, mưa gió bão bùng, nhất là vùng biển Đà
Nẵng hàng trăm năm nay, năm nào cũng có vài cơn bão ghé qua, thế nhưng vì cuộc
mưu sinh của gia đình, những người cha, người anh phải ra khơi vào lộng, ở nhà
chỉ là những phụ nữ chân yếu tay mềm, trót phó thác số phận cho người chồng ngư
phủ với công việc rủi nhiều may ít, đến nỗi dân gian đã đúc kết nên câu ca dao
chua xót:
“ Lấy chồng nghề ruộng em theo,
Chồng làm nghề biển hồn treo cột
buồm ”
Vì vậy, những người vợ người mẹ ở nhà, ngày đêm luôn khấn nguyện cho
người thân của mình khỏe mạnh, may mắn, vượt qua sóng to gió cả, mưa bão, giông
tố để đem về tôm cá đầy thuyền.
Khi ra khơi, họ thường có nhiều thuyền bạn với các bạn chài đi cùng để hỗ
trợ nhau, cùng thả lưới bao vây đàn cá, mỗi nhóm đánh bắt có 3,4 chiếc thuyền
hoặc ít nhất 2 chiếc thuyền, mỗi chiếc có bạn chài nắm giữ một đầu lưới cùng
kéo chèo vào bờ, vì lưới có buộc chì ở dưới đáy nên lưới nặng trĩu xuống sát
đáy biển cạn, trong lòng lưới chứa đầy cá tôm, hải sản... cứ tiến dần vào bờ
theo hình vòng cung nối hai chiếc thuyền.
Đến rạng sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, người nhà của ngư dân
cùng với bạn hàng cá kéo nhau ra bờ biển ngóng đợi thuyền về. Khi nhìn thấy
thuyền nhấp nhô tiến vào từ ngoài khơi xa, người chủ lưới cất cao tiếng hò, báo
hiệu cho những người đang ngồi trên bờ:
Hò hố...giàn nậu vô !
Nghe câu hò gọi, những người trong bờ nhanh nhẹn chạy nhanh ra mép biển,
chuẩn bị đón thuyền vào và hát xô
Hò hỡi hò lơ
Trong số đó, có hai thanh niên khỏe mạnh, chạy vội ra biển, bơi nhanh
đón 2 đầu dây mành lưới từ hai chiếc thuyền kéo vào bờ, bên trong lòng lưới cá
tôm vùng vẫy nặng trĩu, tốp người tự chia làm hai hàng dọc, theo chân hai thanh
niên chạy xuống biển, ngập người trong dòng nước mặn, hai tay nắm chặt dây mành
vừa kéo lưới vừa hát xô nhịp nhàng.
Lúc này, lưới hãy còn ở xa bờ nên những người đón thuyền còn kể và xô
trong nhịp điệu buông lơi, thong thả : Người kể hò mở đầu đầy khí thế : Hố hò lơ, ngay lập tức, người xô đáp lại : Là hò hỡi lơ.
Đoạn I
Kể : Ra đi (mà) sóng biển
Xô: Là hò hỡi lơ
Kể : Sóng biển mịt mùng
Kể : Sóng
biển mịt mùng
Xô : Là hò
hỡi lơ
Xô: Là hò hỡi lơ
Kể : Dô hò
(ta) kéo lên
Xô: Là hò hỡi lơ
Khi thuyền đã tiến vào gần bờ hơn thì tiết tấu kể và xô dồn dập hơn,
khắc họa nhịp điệu khẩn trương hơn, chắc khỏe thôi thúc mọi người chuẩn bị đón
mẻ lưới mới về, người kể cất giọng vào hò cao hơn : Hỡi lơ hò lơ, người xô cũng hưởng ứng mạnh mẻ hơn : Là hỡi hò lơ ; người xô có thay đổi vị trí lời xô và chuyển
lên âm vực cao hơn : Là hỡi hò lơ ( khác
với đoạn I : Là hò hỡi lơ).
Đoạn II
Kể : Hỡi lơ
hò lơ
Xô : Là hỡi
hò lơ
Kể : Ra đi(
mà ) sóng biển
Xô : Là hỡi
hò lơ
Kể : Sóng
biển mịt mùng
Xô : Là hỡi
hò lơ
Kể : Trời
cho ( mà) lưới nặng
Xô : Là hỡi hò
lơ
Kể : Dô hò
ta kéo lên
Xô : Là hỡi
hò lơ
Khi lưới sắp áp sát vào bờ, sóng xô mạnh hơn, thuyền và lưới trôi giạt
bềnh bồng khó điều khiển, mọi người mạnh tay ra sức kéo lưới nhanh vào bờ lên
cạn để tránh sóng nước đập vào làm cá nhảy ra ngoài. Lúc này người kể cất giọng
như nói, thật dứt khoát, rõ ràn : Rị hố rị ! , Những
người xô ngay lập tức hô to như khẳng định động tác : Hố rị ( Rị: tiếng Quảng nghĩa là níu kéo, giữ lại)
Vẫn với nội dung câu hát lục bát ban đầu, song lời kể đã được tách từng
2 từ một, hô lên thật dõng dạt và lời xô cũng chỉ có 2 từ :
Đoạn III
Kể : Ra đi Xô: Hố rị
Kể : Sóng
biển Xô: Hố rị
Kể : Mịt mù Xô: Hố rị
Kể : Trời
cho Xô: Hố rị
Kể : Lưới
nặng Xô: Hố rị
Kể : Dô hò Xô: Hố rị
Kể : Kéo
lên! Xô: Hố rị
Vào đoạn cuối thì cả hai hàng người đều chân chạy nhanh trên cát
kéo lưới, tay nắm dây mành vừa kể và xô : Rị, rị, rị, rị, rị... tiếng rị cuối cùng kéo dài. Mọi người đều
dồn hết sức lực nhanh chân kéo lưới lên cạn, ra khỏi mặt nước, cá bị mắc trong
lưới quẩy đạp khó khăn nên không thể thoát ra ngoài, buộc phải phơi mình trên
cát chờ chủ lưới cho phép bạn hàng cùng nhau hốt cá từ trong lưới ra chia phần
để gánh đi bán ở các chợ gần xa, và có khi người nhà chủ lưới chọn cá ngon đem
về nhà nấu nướng...
Nhìn chung, ngoài timnhs chất sôi nổi hào hứng thì đặc điểm thấy rõ là
lời kể cả 3 đoạn trong điệu hò kéo lưới đều giống nhau về lời ca, tuy tiết tấu
và số từ có khác nhau :
Ra đi sóng biển mịt mù
Trời cho lưới nặng, dô hò ( ta) kéo
lên
Trong khi đó lời xô ở mỗi đoạn đều nhất quán
theo một dạng từ đầu đến cuối ( đoạn I : Là hò hỡi lơ, đoạn II :Là hỡi hò lơ, đoạn III : Hố rị )
Chính vì tính đơn giản trong cấu trúc cũng
như lời ca mà làn điệu hò kéo lưới dễ hát, dễ nhớ đến nỗi hầu hết dân chài đều thuộc lòng và khá phổ biến trong
các buổi sinh hoạt hội hè trên khắp vùng biển này, cũng như được tái hiện khá
sôi nỗi trong các chương trình văn nghệ có chủ đề về Biển ở Đà Nẵng.