Thứ Năm, 19 tháng 10, 2017

Quan họ, chùa Dâu một góc nhìn

Cẩm Lệ

Bữa nay lên Kinh Bắc
            Thả câu hò khoan  giữa trời quan họ
            Buâng khuâng liền chị liền em
            Ngược xuôi lưu luyến chưa về.

      Cái đêm Kinh Bắc là đêm nhớ mãi. Trong khuôn viên quan họ Phú Sơn, một đội dân ca quan họ Bắc Ninh trình diễn một chương trình với những làn điệu dân ca quan họ mượt mà, nghe mà thấy hình ảnh những cánh cò trên đồng ruộng châu thổ sông Hồng mới thật là thú vị sao! Rất nhiều người yên lặng lắng nghe và cảm nhận tình cảm được thả trong những câu ca quan họ. Đêm quan họ tại Phú Sơn, gặp một “liền chị” có tên là Toàn Thắng - nghệ nhân quan họ nổi tiếng Kinh Bắc  - để biết thêm về các liền chị khi diễn xướng.
      Làng quan họ Viêm Xá (Diềm Xá) thuộc xã Hoà Long, huyện Yên Phong, Bắc Ninh. Tư liệu cho biết rằng làng có con sông Ngũ Huyện chảy vòng như dải lụa rồi nhập với con sông Cầu soi bóng núi Kim Sơn. Thế nên trong câu ca phản ánh rằng có con sông Cầu nước xanh trong vắt là thế. Ai cắm xuống đây một hòn núi mà núi mọc ngay đầu làng tạo nên thế đất sơn thuỷ hữu tình. Làng Viêm Xá là làng quan họ gốc xưa nay, thuỷ tổ của làn điệu dân ca trữ tình ấy là đức vua Bà hiện đang được nhân dân thờ phụng tại ngôi đền ngay trên đất Viêm Xá nầy. Về khảo cổ học, các nhà khoa học đã tìm thấy được những di chỉ quý giá như rìu xén tinh xảo, lưỡi dao găm sắc ngọt, đốc cầm bình củ cầu kỳ, chuỗi hạt ngọc lưu ly huyền ảo. Tại núi Quả Cảm còn tìm thấy các đồ dùng sinh hoạt của con người thời xưa như bát ăn, những khuyên tai màu xanh ngà, những chuỗi lưu ly màu xanh ngọc đã chứng tỏ tài thủ công và trình độ sống một thời của các cư dân ở đây. Từ những dấu tích và huyền thoại, các nhà khoa học đã khẳng định nơi đây quần thể di tích có hệ thống khá dày đặc. Các di chỉ do kết quả khảo cổ đem lại càng khẳng định độ tuổi đến 2000 năm của làng Viêm Xá cổ kính. Nổi bật là khu đền Cùng (gồm điện thờ và Giếng Tiên) nằm ngay đầu làng dưới chân núi Kim Sơn, di tích đình làng Viêm Xá nằm ngay ở phía trước của làng, trong đình có câu đối: “Thần linh dựng nên làng Diềm, trải qua các thời đại đều phong tặng ngang trời đất”. Phía trước là hồ nước nay được xây kè, cống được dùng làm nơi tổ chức bơi thuyền hát quan họ ngày hội. Di tích vua Bà nằm cách di tích vài trăm mét tuy không phải là kiến trúc đồ sộ nhưng lại là trung tâm của sự sùng kính, trân trọng không chỉ của nhân dân Viêm Xá mà cả vùng quan họ. Đền vua Bà là kiến trúc cổ thời Lê có trang trí kiến trúc đắp nổi và chạm khắc đơn giản, song lưu giữ nhiều hiện vật quý như tượng vua Bà, bài vị sắc phong, hoành phi câu đối, đồ tế khí vẫn còn khá đủ.
      Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 12 âm lịch là ngày dân truyền rằng vua Bà giáng xuống làng Viêm Xá, dân làng mở hội để tưởng niệm vị Thánh mẫu, mời bạn quan họ của làng về đây ca hát, đối đáp mở nhiều trò vui truyền thống trong đó đặc biệt có trò vui cướp cầu vốn tồn tại như một nghi lễ tín ngưỡng có liên quan trực tiếp tới sự may rủi của dân làng trong một năm sinh sống, làm ăn. Khách thập phương đến đây đều có thể cảm nhận không khí linh thiêng, huyền thoại cổ xưa chen lẫn sự mộc mạc êm đềm, rất giàu tình cảm của những áng thư quan họ vùng Kinh Bắc. Hiếm có làng quan họ nào trong 49 làng quan họ trong vùng lại có tới 4 hội làng như làng Viêm Xá mà đặc biệt là hội vua Bà thu hút đông đảo nhất và dài ngày nhất. Trong lễ hội, ngoài phần nghi lễ, chủ yếu là hát quan họ với các hình thức ca hát bài bản, lề lối nhất và vai trò của các nghệ nhân quan họ cũng chiếm phần đáng kể trong hát thời, hát cầu đảo. Và có lẽ vì không khí quan họ thiêng liêng như vậy mà mặc dù không có những thuận lợi về giao thông, địa thế như Hội Lim nhưng hội hát quan họ Viêm Xá hàng năm vẫn duy trì sức thu hút tự nhiên đối với phần lớn các làng quan họ trong vùng đến vui hát, thi hát như một nhu cầu tự thân đầy hứng khởi. Viêm Xá là chiếc nôi của quan họ, bao nắng, bao mưa, làng vẫn cố công giữ ngôi đền Bà chúa quan họ.
      Chuyện kể rằng: cô gái làng đẹp người, đẹp nết đảm đang nghề canh cửi tên là Nữ Nương, một bữa ra ruộng hái dâu, gặp vua vi hành về chốn dân dã. Cô gái lấp ló trong bờ dâu, trên trời có đám mây vàng kết tụ, hát ghẹo: Tay cầm bán nguyệt xênh xang/ Bao nhiêu thảo mộc lại hàng chị đây.
      Vua vì say câu hát của cô gái đẹp nết, đẹp người thương mến mời vào cung. Nhân dân trong làng tưởng nhớ người con gái đức hạnh có tài ca hát đã rủ nhau học thuộc những bài ca của Bà và sau này chính những bài bản ấy là dân ca quan họ. Những bài hát mà Bà sáng tác khi ca lên không chỉ làm say mê lòng người, giúp trai gái yêu thương nhau mà còn làm cho mùa màng tốt tươi, cây cối đơm hoa kết trái. Ở làng Viêm Xá còn giữ được những bài bản cổ trong mỗi nhà, trong nhiều nghệ nhân mà nghệ nhân Nguyễn Công Luật là một thí dụ. Làng Viêm Xá còn là trung tâm của hội hát quan họ Bắc Ninh. Làng đã làm tất cả những gì làm được để giữ lại, bảo tồn và phát triển di sản quý báu đã trở thành tài sản chung của dân tộc.
      Đến Kinh Bắc, nhớ Hoàng Cầm với “Bên kia sông Đuống” và “Tiếng hát quan họ” của ông. Kinh Bắc là nơi chôn nhau cắt rốn của Hoàng Cầm, mà đặc biệt là tại một làng quan họ mới thú vị sao! Chính đó, mà trong thơ ông đã giữ được các làn điệu dân ca cùng những lễ tiết cho một quan họ, hội hè, đình đám một vùng quê đậm đà vị sắc dân gian, một thời quan họ bay lên dốc, xin chớ dìu nhau xuống vực sâu. Hôm chúng tôi nghe quan họ tại Phú Sơn, trong men rượu cay nồng lại nhớ mấy câu quan họ mở đầu của Hoàng Cầm: Mẹ kể chuyện ngày xưa xa lắm/ Tháng tám ao hồ mát lặng/ Làng quê còn níu lại hương sen/ Hai mươi gái trai/ Thả một con thuyền/ Sóng mười đôi/ Mắt nhìn trong mắt/ Nón nghiêng tăm tắp/ Ngày mai ai chắc được gần ai.
      Tại chùa Dâu. Hôm chúng tôi đến, mặt trời thả xuống những tia nắng hanh vàng khó chịu và ngột ngạt, hơi nắng bốc lên ngùn ngụt như có khói. Trên con đường nhỏ dẫn vào chùa người dân phơi rơm rạ chật cả lối đi - người dân quê mình vẫn vậy trong sản xuất nông nghiệp vì thiếu sân phơi - Mùi rạ xông lên và trên sân chùa ngay trước nhà trai người ta phơi cả một sân lúa, tràn lên bìa sân, đang ưỡn mình phơi dưới nắng hè oi bức.
      Trụ trì chùa Dâu là một sư nữ, cho chúng tôi biết về ngôi chùa nầy: chùa Dâu còn có tên là chùa Diên Ứng, toạ lạc tại làng Dâu, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh bắc Ninh.
      Đây là ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam được khởi công xây dựng vào đầu thế kỷ thứ III sau công nguyên. Hôm chúng tôi đến, chùa đang trong thời kỳ phục chế toàn diện. Trên sân, trước lối đi vào chùa những cây gỗ lim to tướng nằm dài gác thân lên nhau chuẩn bị xẻ dọc, cưa  ngang tham gia trùng tu lại chùa. Từ những thế kỷ đầu công nguyên, chùa Dâu đã là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng trong nước và ngoài nước. Từ cuối thế kỷ thứ IV, Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi đã mở đạo tràng, thuyết pháp tại chùa lập nên thiền phái đầu tiên ở Việt Nam. Chùa được ông Mạc Đĩnh Chi đứng ra dựng lại với quy mô lớn vào thế kỷ thứ XIV, và trùng tu nhiều lần ở các thế kỷ sau. Hiện nay tại sân chùa có tháp Hoà Phong 3 tầng cao 17 mét. Trong tháp có treo một chuông lớn đúc từ thời Cảnh Thịnh (1793), một khánh lớn bằng đồng đúc năm Minh Mạng thứ 18. lại còn có tượng Bà Pháp Vân, tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ



 
















Tiên Đồng (Ảnh: VVH, 6/2006)   Ngọc Nữ (Ảnh: VVH 6/2006)

      Ca dao kinh Bắc nhắc nhau: Dù ai đi đâu về đâu/ Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
      Chùa Dâu là nơi ta có thể tìm hiểu và gặp lại câu chuyện Quan Âm Thị Kính. Chuyện ra đời từ chùa Dâu, nay còn tượng thờ phía sau gian chính. Ngày xưa, con gái xuống tóc vào chùa tu hành là không thể được, thế nên Thị Kính phải giả làm trai để được vào chùa kinh kệ sớm hôm. Nơi các chú tiểu ở cũng được bố trí riêng nên chuyện phát hiện gái giả trai để tu hành không làm bận lòng các sư trụ trì là mấy. Chính đó mà Thị Kính có thể vượt qua. Thế nhưng cho đến một ngày người ta đem con trẻ đến chùa và rằng gán cho Thị Kính tội lấy gái (bởi Thị Kính đẹp) đến phải có con. Thị Kính phải nuôi lấy trẻ như một sự công bằng theo luật nhân quả phải có trước Phật tổ. Chuyện từ đó làm những nhà tu hành trong chùa phẩn nộ, rằng đường trần Thị Kính chưa dứt được, không thể tu hành thành đạo. Thị Kính vẫn lặng thinh chấp nhận và xem đấy như một lỗi lầm. Cho đến một hôm các vị sư trong chùa phát hiện ra rằng Thị Kính là gái giả trai chứ nào phải là trai mà không thể dứt nợ tình, khi đã minh oan được cho Thị Kính cũng là lúc Thị Kính vì đau buồn không thể sống được nữa, đã thăng hoa về cõi Niết Bàn và đã thành chính quả. Quan Âm Thị Kính từ đó mà có!
      Chuyện về một người con gái đi tu mắc oan nghiệp được chuyển thể thành các loại hình nghệ thuật. Trong Nam chuyển thành loại hình cải lương, miền Trung chuyển thành tuồng, ngoài Bắc chuyển thành kịch, chèo...diễn trên sân khấu cho người đời biết được một câu chuyện thương tâm đã xảy ra nơi chốn Phật đài.
      Gần 2000 năm biến dịch với bao đổi thay, tu tạo, có lẽ bây giờ cảnh quan chùa Dâu đã khác xưa nhiều. Nghe nói, trước đây con đường vào chùa đẹp lắm. Qua tam quan đồ sộ và bãi đất rộng nằm giữa hai dãy ao dài in bóng chiếc cầu chín nhịp có mái lợp, kiểu nhà cầu cổ ta còn thấy ở Hội An và Huế, và một số nơi khác, khách bộ hành qua cầu vào dâng hương lễ Phật. Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt, chùa Dâu được xây cất theo kiểu nội công ngoại quốc, một kiểu kiến trúc Á đông truyền thống. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi chính: Tiền đường, Thiện hương và Thượng điện. Hậu đường xưa nay không còn nữa, nhưng khách thăm chùa vẫn còn được chứng kiến bốn mươi tể gian nhà oản hai bên tả hữu. Hôm chúng tôi đến dạo quanh các căn nhà oản, quả là rất rộng, các gian oản trống trơn vừa được phục chế, xem đó ngày trước đây vẫn là nơi dừng chân nghỉ lại của các khách thập phương đến lễ chùa Dâu. Các gian phục chế lại đều thấp, toàn là gỗ lim chắc không tưởng được. Giữa sân chùa là cây tháp Hoà Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn, được nung thủ công chín đến độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã làm xoá mòn đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Dấu vết xưa nhất còn lại của ngôi chùa được các nhà khảo cổ học xác định là từ đời nhà Trần. Đợt tu bổ lớn nhất vào năm 1313 dưới triều vua Trần Anh Tông. Chúng tôi dạo quanh chùa mới cảm nhận được hết vẻ hằn sâu của thời gian, đặc biệt là những tượng Phật bằng gỗ - ngày xưa ấy chỉ chạm trổ toàn bằng gỗ, làm gì có đất nung và ximent, hoặc làm gì thời buổi cách đây những 2000 năm mà có thạch cao để làm tượng - Những tượng Phật bằng gỗ, trầm mặc lâu đến nỗi chỉ cần nhìn vào là có thể ức đoán được lớp bụi thời gian phủ lên trên tượng. Những tượng Phật không tròn to, vạm vỡ như những tượng Phật ngày nay. Phải chăng dưới cái nhìn thời ấy, các vị Phật vẫn bình thường như chúng sinh bình thường lam lũ, vẫn má cóp, thân gầy! - Theo nghiên cứu sử học, chùa Dâu có nhiều tên gọi: Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự... có thể ra đời đồng thời với truyền thuyết Man Nương, một trong những mã khoá mở vào tầng sâu của văn hoá Kinh Bắc. Vậy nên, hợp với chùa tổ Man Nương là cả một quần thể những chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn thờ tứ pháp là Pháp Vân, Pháp Vũ, pháp Lôi, Pháp Điện, là nơi giao lưu của hai nền văn hoá Phật  giáo, một từ Ấn Độ sang, một từ phương Bắc xuống, nơi đây từng là nơi “kinh đô”của Phật giáo Việt Nam hơn 10 thể kỷ đầu. Tại “kinh đô” này đã có nhiều nhà sư nổi tiếng, với hội tắm Phật mùng 8 tháng tễ hàng năm:  Dân gian thường nhắc: Dù ai buôn bán trăm bề/ Nhớ ngày mùng tám thì về hội Dâu.
      Càng nhìn ngắm kỹ các tượng Phật trong chùa mới thấy hết giá trị của chùa Dâu, một trong những ấn tượng khó có thể quên được sau khi thăm viếng cảnh chùa ấy là những pho tượng thờ. Có thể nhìn tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc màu đồng hun. Gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi sự liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc, nơi cội nguồn của tễ tưởng thiện căn, của đức từ bi hỉ xả. Tượng Pháp Vũ với những nét đã được Việt hoá, đức độ, cao cả. Đặc biệt hai pho tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ đặt hai bên điện thờ chính, gợi nhớ tới những cô thôn nữ của miền quê quan họ nơi đây. Dáng người thắt đáy lưng ong uyển chuyển, vành khăn quấn trên đầu bình dị và mềm mại, chiếc áo tứ thân mớ ba, mớ bảy với dải lụa đào thướt tha làm tôn lên vẻ đẹp dịu dàng của người thanh tân quan họ nơi Kinh Bắc. Cha ông ta xưa đã rất tinh tế, nhuần nhị khi đặt tượng thờ Kim Đồng, Ngọc Nữ. Về đây ta gặp sự giao hoà đẹp đẽ giữa tễ tưởng Phật giáo chính thống, một dạng thức văn hoá tinh thần ngoại nhập vào ta, với tâm linh, tinh thần bình dân, thuần phác. Ta cũng lại thấy ở đây một minh chứng rõ nét cho quá trình tiếp biến văn hoá, sự Việt hoá những giá trị tinh thần khi hội nhập. Về chùa Dâu, về Thuận Thành ta như được tắm mình trong không khí cổ xưa qua dấu ấn của nhiều tầng bậc văn hoá - lịch sử. Nơi đây, đô thành Luy Lâu xưa bên dòng sông Thiên Đức làm ta gợi nhớ thời oanh liệt của Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Đông Hán năm 43 sau công nguyên. Còn đây, dòng sông Dâu đã đi vào thơ Tố Hữu: Con sông Dâu chảy về đâu/  Mà lơ thơ đến Luy Lâu lại dừng.
      Còn đây nữa là miền đất trù phú Keo - Dâu với câu chuyện cổ tích về cô thôn nữ hái dâu, nết na xinh đẹp đã trở thành Nhiếp chính Ỷ Lan tài gỏi, quán xuyến việc nước giúp vua đánh giặc ngoại xâm. Sư nữ gợi chuyện làm tôi nhớ về người con gái họ Đoàn ở Quảng Nam cũng hái dâu, cũng nết na xinh đẹp và đã trở thành Hiếu Chiêu Hoàng Hậu - vợ Nguyễn Phúc Lan - đã giúp cho nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa trên đất Duy Trinh của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam phát triển và nhờ đó mà thương nhân Âu Châu, Trung Quốc biết đến xứ sở Đàng Trong với sản phẩm lụa là nổi tiếng. Chuyện dân gian kể rằng: từ thủ phủ Điện Bàn thuyền rồng Nguyễn Phúc Lan tuần du cùng cha trên dòng sông Thu Bồn vào một đêm trăng sáng, bỗng vọng lại từ đâu trong gió lời ca của cô thôn nữ hái dâu. Lời rằng: Thuyền rồng chúa ngự nơi đâu/ Cảm thương phận thiếp hái dâu một mình. Chúa Nguyễn Phúc Lan nghe được, đem lòng yêu mến cô gái họ Đoàn hát hay làm giỏi. Tiệc cưới của họ được tổ chức. Về sau, cô gái họ Đoàn trên đất Thanh Chiêm được phong là Hiếu Chiêu Hoàng hậu. Và, cũng từ đấy - thế kỷ thứ XVII - một thương cảng Hội An từng bước ra đời và phát triển phồn thịnh. Mãi đến ngày nay người ta còn tìm nhiều phương pháp để tìm hiểu lại thời vàng son ấy của phố Hội trên đất Quảng Nam. Lịch sử đôi khi giống nhau vài sự kiện tiêu biểu, như là cô gái hái dâu ngày xưa và cô gái hái dâu thời chúa Nguyễn đã làm ta thức tĩnh !
      Và đây, chùa Tháp Bút, nơi có tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng mà thời còn cắp vở đến trường phổ thông tôi đã nhiều lần thấy in hình Tháp Bút trên sách và tượng Phật mới linh thiêng làm sao ! Không thể nghĩ rằng có một ngày lại đến được nơi này, đứng bên tượng chiêm ngưỡng và tôn kính như buổi sáng nay trong cái nắng hanh vàng của xứ Kinh Bắc. Hoàng Cầm viết trong Bên kia sông Đuống: Ai về bên kia sông Đuống/ Cho ta gởi tấm the đen/ Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên/ Những hội hè đình đám/ Trên núi Thiên Thai/ Trên chùa Bút Tháp/ Giữa huyện Lang Tài/ Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu.
      Là làng tranh Đông Hồ, nơi tâm hồn dân gian dẫu hoàn cảnh nào vẫn luôn mỉm cười trên sắc giấy hoàng, giấy điệp. Làng tranh có một không hai tại Việt Nam. Đôi khi ta cứ tưởng làng tranh Đông Hồ phải là vùng nằm trong long Thăng Long - Hà Nội - nhưng đến đây mới ngộ ra rằng làng tranh nổi tiếng Đông Hồ từ rất xưa đã là một làng quê dân dã tại Bắc Ninh. Mới biết: Quê hương ta lúa nếp thơm nồng/ Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp...Cạnh đó là dòng sông Đuống “ngày xưa cát trắng phẳng lỳ” giờ vẫn bình thản trôi đi như đã từng trôi qua những bến bờ lịch sử.
            Và, từ chùa Dâu, ta có thể rẽ ngang thăm núi Thiên Thai hay về bên kia sông Đuống dâng hương các vị vua thời Lý tại đền Đô. Sông Đuống nghe quen và lại gợi nhớ đến Hoàng Cầm với thơ “Bên kia sông Đuống”, nơi thi sỹ gởi gắm một mối tình, thiết tha và lãng mạn với một cô thôn nữ - một liền chị - quan họ vang bóng một thời. Hoàng Cầm phải tìm cho ra lá diêu bông thì đấy cũng là cơ hội cho một mối tình. Nhưng, nào đâu có lá diêu bông để mà tìm ! Nên tình yêu dù thiết tha thế nào cũng không thể. Thì đành vậy!  Quan họ hát rằng: Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng/ Chị thẩn thờ đi tìm/ Đồng chiều cuống rạ/ chị bảo/  -Đứa nào tìm được lá Diêu Bông/ Từ nay ta gọi là chồng/ Hai ngày em tìm thấy lá/ chị chau mày/ -Đâu phải lá Diêu Bông!/ Mùa đông sau em tìm thấy lá/ chị lắc đầu/ Trông nắng vãn bên sông/ Ngày cưới Chị/ Em tìm thấy lá/ Chị cười, xe chỉ ấm trôn kim/ Chị ba con/ Em tìm thấy lá/ Xoè tay phủ mặt chị không nhìn/ Từ thuở ấy/ Em cầm chiếc lá/ Đi đầu non cuối bể/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu Bông hờ!...ới Diêu Bông!...

Đem xuân vẻ lại

Thu Sương

Năm Mỹ đánh phá Miền Bắc lần thứ hai, gia đình tôi sơ tán lên Tuyên Hoá, huyện tây bắc Quảng Bình. Ở gần hang Minh Cầm nên có lúc chúng tôi vào hang theo đường ray tàu lửa. Hang có cửa thông ra Rào Nậy, một nhánh của sông Gianh. Hang chứa nhiều súng đạn, máy bay Mỹ cứ nhè đó thả bom, phóng rốc-két. Bom dội vào núi đá, xuống sông. Núi toạc trắng hếu, nước dựng như thác, cá nổi trắng sông. Dân xóm sơ tán vào núi Cấm thế nhưng một bà già vẫn ở lại. Ả đào đó! Bà chủ nhà tôi bĩu môi. Ả đào sao chẳng biết chứ nhà bà già sạch sẽ, tinh tươm từng gốc cây, mùa nào quả ấy, lúc lĩu mời gọi. Nhiều buổi trưa, lúc giãn máy bay địch, chúng tôi phóng về tuốt ổi, quýt, muỗm bưởi rồi lủi. Sợ mẹ, sợ máy bay chứ bà già ấy lặng như bóng. Bà thường nằm võng nhìn ra Rào Nậy…mới ngày nào chửa biết cái chi chi…Ư…hừ…Lời xưa xắc mà vang vọng, lạc lõng và ma quái giữa không gian lặng tờ sau trận oanh tạc. Chỉ khi đã thấm nỗi đời tôi mới hiểu trong đấy buồn thương lẫn tự tại, chất chứa ước vọng quá khứ trở về. Tôi lục tìm sách xưa còn biết thời chống giặc Minh, có đào nương bằng tiếng hát của mình làm giặc mê mẩn, chờ chúng ngủ say rồi cùng nghĩa quân bí mật khiêng bỏ vào bao đem thả sông. Tiếng hát diệt giặc, ngân vang giữa không gian chết chóc…Phải chăng tiếng đàn Thạch Sanh cũng từ đó?
Ở miền của Ba lý, của bài chòi mà tôi cứ nhớ giọng hát lạc lõng giữa không gian lặng tờ. Cô bạn Vân Anh ở Hà Nội bảo: mời chị dự canh hát mừng sinh nhật câu lạc bộ ca trù Thăng Long. Chị sẽ gặp tứ đại đồng đường trong chiếu ca trù, sẽ gặp dân chơi xuyên tỉnh!
Chiều thứ Bảy, người đổ ra phố đông đặc. Hai lần hỏi tôi mới tìm được ngôi nhà nằm sâu trong hẻm nhỏ trên đường Giang Văn Minh. Một cô gái tóc lá nhỏ nhẹ mời chúng tôi lên gác. Vân Anh đang trao đổi kịch bản với chị Phạm Thị Huệ, giảng viên khoa Nhạc cụ truyền thống của Nhạc viện Hà Nội và là đại diện Câu lạc bộ ca trù Thăng Long. Chị Huệ nói: chưa có trụ sở nên nhờ nhà bố mẹ. Dự án “Khôi phục và Truyền dạy vốn ca trù theo phong cách Ngãi Cầu” do Trung tâm trao đổi giáo dục với Việt Nam CEEVN tài trợ chỉ 70 triệu nhưng được sự giúp đỡ của Giáo sư, tiến sỹ Trần Văn Khê, Gs.Ts Tô Ngọc Thanh, tiến sỹ Vũ Nhật Thăng, các nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan, Bùi Trọng Hiền và sự ủng hộ nhiệt thành của các nghệ nhân. Các cụ đều có câu lạc bộ tại quê hương nhưng rất nhiệt tình. Tuổi cao sức yếu nhưng cứ tối thứ bảy đầu tiên của tháng lại lên xe về truyền dạy và hát. Các em học sinh khoa nhạc cụ truyền thống thu xếp, trang trí giúp.
Chúng tôi lên căn gác nhỏ. Ngay bậc cầu thang lên tầng trên, một cô gái tóc vàng cao lớn phe phẩy chiếc quạt giấy nhỏ trông rất ngộ. Trên chiếc sập gỗ sát tường, một ông cụ ngồi xếp bằng, kính trễ gọng, liu riu lắng nghe cậu thanh niên quất trống. Tôi nói “quất” vì dùi trống nhỏ và dài như chiếc roi. Tuy vậy cậu ta “quất” có hồi có chập: chát… tom… to..om… Dừng! Ông cụ nói: người cầm trống chầu đứng vị thứ cuối nhưng có quyền thưởng phạt. Hát hay thì đánh “chát” vào tang trống. Vì thế phải đánh trống thật chuẩn, phong lưu mà chững chạc. Thế này này: cầm roi nhẹ nhàng, ngửa bàn tay rồi đảo úp tay đập roi xuống. Tiếng trống phải thanh tao, rắn rỏi, tròn trĩnh. Tom… tom…chát… Cậu thanh niên cầm roi: tom… tom…chát… Cạnh ông cụ, một thanh niên đang hướng dẫn cô gái cách rung, vuốt dây cây đàn đáy: “vê” tức là tạo tiếng gió, “cáp” tức đàn thêm tiếng trong khuôn khổ...
Cô gái tóc lá bước lên đưa cho mỗi chúng tôi một quạt giấy. Khớp kịch bản xong, chị Huệ giới thiệu với tôi: cụ Đẹ là kép đàn thôn Cao La, xã Dân Chủ, Tứ Kỳ, Hải Dương. Tám tư tuổi, tóc mây da mồi nhưng cụ vẫn đi Hải Phòng, Quảng Ninh... Tám giờ tối mới hát nhưng cụ đến sớm để truyền dạy, sáng hôm sau về.
- Hai buổi xe cho hai giờ hát, cát-xê nào bằng? Vân Anh cười.
Chị Huệ chỉ chàng trai và cô gái ôm đàn đáy: Văn Tuyến, kép đàn giáo phường Lỗ Khê, Thu Thuỷ đào đàn trẻ của câu lạc bộ Thăng Long.
Trong phòng, chị Đỗ Quyên và Hải Phượng của câu lạc bộ ca trù Hải Phòng đang gói chiếc trống chầu bằng giấy bóng hoa. Quạt vù vù nhưng trán lấm tấm mồ hôi, chị Quyên nói hơn trăm cây số Hải Phòng lên không sao nhưng từ Gia Lâm sang sốt ruột quá, chốc lại đèn đỏ.
Một bà cụ đang ngồi với bốn cô bé. Chị Huệ bảo cụ Chúc 77 tuổi ở Ngãi Cầu, An Khánh, Hoài Đức, Hà Tây, cháu nội Lan Anh, chắt nội Nguyễn Thị Nhung và Đoàn Linh Hương, đào nhí câu lạc bộ ca trù Thăng Long. Cụ Chúc bảo cô bé áo trắng bảng tên ghi “Huệ Phương, lớp 3D trường tiểu học Kim Đồng”: khó nhưng hay nhất ở chỗ ca nương nhấn nhá “ứ hự”,  phải thấy con chữ trong miệng mình mà nhả cho tròn trịa. Huệ Phương nâng phách: ư…ư…Hồ Tây… Cô bé vừa ngân vừa đưa mắt sang tôi. Cụ Chúc ra hiệu: nhìn thẳng, trước mặt là cảnh lời ca. Mồ hôi lăn dài, Huệ Phương nhịp phách: ư… ư…Hồ Tây sóng nước…
- Nói đứa trẻ 8 tuổi hát phải nhập tâm thì sao chúng hiểu được, cứ phải cầm tay chỉ lối - Cụ Chúc nói với tôi: nghe ca trù thưởng thức văn là chính, lời sâu sắc lắm. Thơ đường, lục bát hay tự do đều có thể hát ở một làn điệu nhất định nhưng phải diễn cảm hết tình thơ, ý thơ. Phải luyến chữ thật khéo, thật nhuyễn. Hát “cái lộc bình nó rơi” thì phải như nó đang rơi trước mắt người nghe! Hát phải thoát để người nghe thấy tâm mình là thật. Mỗi canh hát là một cuộc nghiệm. Tiếng hát ca trù như chiếc vòng quý, chạm trổ tinh vi từng nét. Ngoài tiếng hát, đào nương phải học đàn và phách. Đó là ba thứ bắt buộc. Đặc biệt là phách. Phách là tiếng hát thứ hai của đào nương. Tiếng hát đáng bậc thủ khoa mà phách nhụt thì hạ xuống á nguyên ngay. Phách phải quện với tiếng hát và đàn. Tuỳ ý thơ, tình thơ mà mau mà thưa, róc rách như suối reo, ríu ran như chim hót. Ví câu non xanh xanh, nước xanh ư…ư xanh…
Bốn cô bé cũng nhịp phách …non xanh xanh, nước xanh ư…ư xanh… Sớm tình, sớm tình, tình sớm, trưa tình tình trưa…
Mười hai tuổi nhưng Lan Anh, Nhung và Hương đã thành thạo điệu bắc phản, mưỡu, hát nói. Cụ Chúc nói, ca nương có “tủ” giọng. Bà Mùi luyến thật sâu chữ “say” trong câu “say mà  ai biết rằng say bao giờ”, bà Kim Đức có chữ “cảm” trong câu “Yên thuỷ mang mang vô hạn cảm”. Các bài hát đều do ca nương thể hiện trong khi người đàn, cầm trống chầu có thể nam hoặc nữ. Ca nương là chủ canh hát. Bởi lối hát kết hợp khí nhạc cổ với thơ về cây lá, núi sông, khí tiết con người mà trái với chầu văn hát cho người chết, ca trù là hát thờ người sống. Cụ Chúc cười móm mém: hát thờ người sống mà không tinh sao được?
Tôi hỏi: xe pháo về kinh có bõ công? Cụ Chúc lại móm mém: chỉ mong gặp được trò say hát, có sức khoẻ để truyền đạt. Cụ nhìn đồng hồ tường, giục trẻ vấn tóc thay áo. Bàn tay gầy guộc buộc lõi độn, vấn khăn thật cẩn thận. Nhìn cụ đứng trước gương chỉnh chuỗi cườm cẩm thạch, từng nếp áo trong ngoài, tôi cảm giác cụ sắp bước vào thánh lễ. Huệ Phương cũng áo dài năm vạt, trong lĩnh hồng ngoài sa đen. Tối hè, cô bé lấm tấm mồ hôi trán. Chị Huệ giục trẻ uống sữa. Chị nói, hát ca trù phải sử dụng nội lực rất nhiều để vận khí. Trong lúc cần năng lượng và tập trung tâm trí như các môn thể thao nhưng đào nương còn phải để bụng giữ hơi. Ăn thức nhẹ nhưng nhiều năng lượng, hát xong mới ăn chính.
Hải Phượng đính thiệp chúc mừng lên mặt trống. Vân Anh bước ra, khăn nhung trâm ngọc lúng liếng. Hoa chúc mừng nhiều nhưng hai bình sen đang độ vẫn ở vị trí trang trọng nhất. Đàn đáy dựng bên tường, giữa sập là cỗ phách ngay ngắn. Không micrô, Vân Anh nhẹ nhàng nhắc quan viên tắt di động và đèn flash để không ảnh hưởng canh hát. Cô giới thiệu nghệ nhân và khách mời các câu lạc bộ. Nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ run run: thời gian của tôi không còn nhiều, hãy giữ lấy môn nghệ thuật quý giá này, còn người hát người nghe là ca trù sống mãi…
Mở đầu canh hát là điệu miễu Chơi Hồ Tây của đào nhí Huệ Phương. Tom… tom… tom…! Cụ Đẹ đánh ba tiếng trống gọi. Ca nương Phạm Thị Huệ nâng đàn. Gập chân một bên, sa đen trên vế phải lĩnh hồng vế trái, Huệ Phương nâng phách chào quan viên rồi tay phải hai lá phách dẹt, tay trái phách tròn …Mực in vách phấn đề thơ…ư…ư...thơ. Hồ Tây…ư…hồ Tây sóng nước ư… ư… hứ… bây… ư… bây giờ ư là đây…Giọng ca như nước ban mai giữa không gian đằm thắm sắc xưa.
Vân Anh hướng về quan viên: - Đàn đáy là một điểm độc đáo của ca trù. Đàn phải ghim với giọng hát nhưng tiết tấu phải đan chặt với phách. Chính vì vậy mà ca nương và kép đàn thường đi với nhau, rất hiếm khi đi với đàn lạ. Nhưng hôm nay trong sự ngẫu hứng, đào nương Đỗ Quyên của câu lạc bộ ca trù Hải Phòng và kép đàn Văn Tuyến của giáo phường Lỗ Khuê sẽ mời quý vị nghe điệu Chơi xuân.
…Đạp toang hai cánh càn khôn, đem xuân vẽ lại trong non nước nhà…Tôi nhẩm lời hát theo đàn phách rộn rã và nhớ không gian lặng tờ.
Cô gái tóc vàng rất thích thú khi Vân Anh mời quan viên cầm chầu bài Hỏi gió của Nguyễn Khuyến. Một thanh niên đưa tay. Theo giới thiệu của Vân Anh thì Minh là thính giả trẻ tuổi nhưng rất sành về âm luật và cầm chầu rất lãng tử. Minh ngồi xếp bằng, cầm roi đĩnh
 
        Một canh hát, ba thế hệ. Ảnh do đào nương Phạm Thị Huệ cung cấp
đạc: tom… tom… Nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc so phách, cất giọng:
…Khoái tai phong dã! (Sướng biết bao, gió thổi đó)/ Giống vô tình cây đá cũng mê tơi/ Gặp gió đây ta hỏi một đôi nhời/ Ta hỏi gió quen ai mà phảng phất?... Phách khoan nhặt, đàn ngân và tiếng trống của người cầm chầu với dáng dấp hiện đại cho tôi cảm giác thú vị lạ. Một chị rót cho tôi ly nước nhưng hạ thấp ấm để tiếng nước không làm vỡ không gian dìu dặt phách đàn. Quạt giấy, nước vối thơm đẫm không gian xưa.
Đào nương Phạm Thị Huệ ca bài Trên vì nước, dưới vì nhà của Nguyễn Công Trứ: Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái (Chí vùng vẫy ngang dọc là món nợ của tài trai)…Một mình để vì non vì nước/ Cho kinh luân từ trước đến nghìn sau…
 Nhằm nâng cao khả năng cảm thụ ca trù và hiểu biết môn nghệ thuật dân tộc, chúng tôi mời quý vị đăng ký tham gia hội viên danh dự của Câu lạc bộ - Sau lời dẫn của Vân Anh, Thuỳ Chi, cô gái tóc lá ban chiều đưa cho tôi tờ phiếu: mời chị…
Sau bài Chiều lữ thứ của nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc, nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền nói ca trù có từ thế kỷ 11, ở Hà Tĩnh. Ra đời sớm nhưng quy định rất chặt: ca trù ở làng xã gọi là giáo phường và thường là chồng đàn, vợ hát hoặc anh đàn em hát. Cuộc thi chỉ tổ chức ở làng khá giả, thường kéo dài một tháng. Tổ chức ở làng nào thì chức dịch làng đó cáo yết ngoài cửa đình và thông báo cho giáo phường làng biết. Giáo phường làng có trách nhiệm thông báo cho các giáo phường khác. Hoa trang trí canh hát thường theo mùa nhưng phải là thứ có hương như sen, cúc, hải đường… Các bô lão làm giám khảo. Cuộc thi qua ba vòng để chọn ba người: hát hay nhất, đức hạnh nhất và xinh nhất. Chọn xong thì bày cỗ. Một mâm cho hội đồng chức dịch, một mâm cho ba cô. Mâm cỗ đãi đào nương có cua bể, thịt ếch bởi theo kinh nghiệm dân gian, thịt cua ếch giúp giọng hát trong và bền. Vật chất không nhiều nhưng tính chuyên nghiệp, tính nhà nghề cao lại là cách thức của một đại hội liên hoan nghệ thuật cộng đồng nên người được giải rất vinh dự. Người nghe rất rành thơ phú, vì vậy trong lúc xã hội không chấp nhận con gái đi học nhưng đào nương phải học chữ, phải luyện đủ điệu để có thể hát ngay bài thơ mà quan viên vừa ứng tác. Canh hát ca trù là tổng hợp các quá trình: sáng tạo, thể nghiệm, thưởng thức tác phẩm văn chương. Nhiều đào nương không chỉ hát mà còn làm thơ rất hay về chất thơ lẫn trí tuệ, trở thành phi, hậu như Chế Thắng phu nhân, vợ vua Trần Duệ Tông. Triều Lý, Trần có nhiều vua giỏi âm luật ca trù. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chế tác điệu múa “Bài bông” nhân dịp vua Trần Nhân Tông cho dân mở hội “Thái bình diên yến” ba ngày ăn mừng chiến thắng quân Nguyên. Đây là điệu múa sang trọng bực nhất của ca trù, ca ngợi cảnh sắc đất nước vào Xuân, xưng tụng thanh bình sau ba lần đánh thắng quân Nguyên, tạo nên hào khí Đông A của vương triều nhà Trần. Thời Trịnh ca trù rất thịnh, điệu Thổng tương truyền là Trịnh Sâm soạn. Ca nương Phùng Ngọc Đài được Trịnh Tráng phong vương phi, Trịnh Cương lấy ca nữ họ Trương phong làm Quốc mẫu… Nổi tiếng trong mối tơ duyên văn nhân với ca nương là đào Cầm và Nguyễn Du. Tiếng ca của đào Cầm làm Nguyễn Du say đắm. Tương ngộ chưa lâu thì chiến tranh Trịnh Nguyễn. Sau mười năm ly tán, qua một canh hát mà Nguyễn Du nhận ra người cũ. Văn nhân quân tử xưa ai cũng yêu ca trù. Văn Cao nói “tiếng phách dồn lắng xa…”, là tiên nhạc vẳng từ tiên giới.
Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan đã bỏ công điền dã sưu tầm ca trù mười bảy tỉnh và thành phố cho biết ở Yên Lý, Nghệ An có dòng họ Trần nhiều đời làm nghề ca trù, hiện còn lưu giữ gia phả và thần phả nghề tổ. Uy Viễn tướng công tìm ra lối hát ả đào ở làng Cổ Đạm. Thành ngữ “ca Cổ Đạm, phách Kỳ Anh” bởi Cổ Đạm có đền thờ ca trù mười hai xứ. Kỳ Anh có một xóm làm nghề ca trù là xóm Nhà Trò. Với các đề tài thiên nhiên, lịch sử, khí tiết con người, ca trù được coi là hát thờ người sống, là tinh hoa cổ nhạc Việt Nam nhưng thời chiến tranh và bao cấp nó bị cho là phù vân, điếm đàng, nhiều đình đền hát ca trù xưa bị tháo dỡ để làm nhà hộ sinh, nhà hợp tác. Tình yêu ca trù của các nghệ nhân đã vượt qua thời gian khắc nghiệt. Các cơ quan chức năng đã lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận ca trù là môn văn hoá phi vật thể.
Cô gái tóc vàng có máy ghi âm nhưng vẫn ghi chép. Vân Anh lại hướng về quan viên: Thay lời kết, chúng tôi xin gửi tới quý vị tiết mục trình diễn của ba thế hệ với mong muốn ca trù sẽ mãi mãi lưu truyền trong tâm trí người dân Việt. Sau lời dẫn của Vân Anh, nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ cầm trống chầu, đào nương Phạm Thị Huệ đàn cho đào nhí Lan Anh ca điệu Gửi thư.

 Tôi xuống sân, những muốn nghe từ xa tiếng hát cùng phách đàn của ba thế hệ. Tình thư một bức ư…(tom…tom…). Hỏi ư…tình nhân …ư…(chát) rằng nhớ hay quên ư…(tom…tom… tom…)… Giọng ca trong vắt, phách đàn khoan nhặt và tiếng trống của người qua hơn nửa thế kỷ biến động vừa đằm thắm vừa phong lưu. Trăng rằm vằng vặc như soi như tỏ. Người xưa ơi, xin lắng nghe.

Đầu, đuôi, thủ "dĩ"

Phước Ninh

Thành tố “đầu đuôi  thủ dĩ”, một cụm từ trong dân gian để chỉ về đầu và đuôi của con heo. Tuy nhiên, điều lạ và thú vị ở chỗ là, đã đầu, mà lại thêm chữ thủ, đuôi, mà còn kèm theo tiếng vỹ nữa. Hai chữ thủvỹ trong Hán tự có nghĩa là đầu và đuôi. Nhưng tại sao cụm ngữ này vẫn được sử dụng trong dân gian một cách bình thường từ hồi nào đến giờ vậy? Tuy nhiên, trong thực tế, mỗi khi cúng bái, người chủ gia đình hứa tạ đầu heo, hoặc tạ đầu đuôi thủ “dĩ”, thì nó hoàn toàn khác nhau về chi tiết lễ vật.
            Mỗi năm, vào dịp cuối tháng Chạp, nhiều gia đình cúng tạ ơn đất đai viên trạch, người bán buôn tạp hóa được tài lộc, có đồng vào đồng ra, làm ăn khấm khá. Cửa hàng kinh doanh thương mãi thu nhập dồi dào, hoặc hộ tư nhân suông sẻ trong việc giao tiếp đối lưu…Họ thường bái vọng ơn trên, đất đai, cúng các bác – những người khuất mặt không nơi nương tựa….Tâm nguyện hứa có thể là tạ đầu heo, hoặc tạ đầu đuôi thủ vỹ. Ngoài ra, những khi khấn nguyện thần linh, thần hộ mạng…người khấn vái xin cho tai qua nạn khỏi, con cái thi đỗ, bệnh nặng phục hồi…, thì tùy theo lời đã hứa thiêng, mà sau này đạt được tâm nguyện, thì phải y tạ lễ vật. Sự khác biệt giữa hai hình thức dâng lễ bày biện như sau:
             Nếu hứa tạ đầu heo, thì người cúng tạ chỉ mua đầu heo đực chưa luộc. Khi nhang đèn bái vọng, đặt đầu heo xây ra (đầu heo xây ra, đầu gà xây vô), nghĩa là xây đầu heo đối diện với người đứng bái.
            Nếu tạ đầu đuôi thủ vỹ, thì yêu cầu phải đầy đủ lễ vật như sau:
1-        Đầu heo đực chưa luộc
2-        Đuôi heo phải còn một nhúm lông. Nếu quên chừa lại, người ta kèm riêng theo một ít lông heo 
3-        Bốn cái móng đất. Móng đất là phần chân phía dưới của đùi heo, vừa qua khỏi khớp xương
4-        Miếng tợ ba sườn. (Miếng xương sườn bằng cở 3 ngón tay người lớn)
5-        Đầy đủ bộ đồ lòng, mỗi thứ một ít (gan, phổi, tim, cật, ruột…) kể cả túi mật
6-        Miếng mỡ chài
7-        Một chén huyết đã luộc chin
8-        Bong bóng còn nước bên trong.
9-        Dậu heo
Như vậy có thể nói rằng, đầu đuôi thủ vỹ là một con heo thu gọn. Cách xếp đặt con heo ấy như sau:
1-        Đặt đầu heo trên một mâm tròn (đầu xây ra). Có thể thay bằng một cái nia. Vắt đuôi heo ngâm qua miệng.
2-        Trải trùm kín miếng mỡ chài lên đầu con heo
3-        Đặt bốn móng chân đất dưới đầu heo theo vị trí hai chân trước, hai chân sau thứ tự như dáng con heo thật.
4-        Các phần còn lại đặt một bên trong mâm/nia.
Việc cắt đầu heo cúng cũng phải khéo và chuyên tay nghề. Nếu cắt đầu heo sát về phía đầu, thì trông rất xấu; nhưng quá nhiều về phần nọng, thì cũng không đẹp. Người thợ mổ chuyên tay, họ chỉ cần nhìn bằng con mắt nghề nghiệp, đặt dao đúng vị trí, là có được một đầu heo đẹp. Người tay ngang áp dụng phương cách dân gian kinh nghiệm thú vị. Họ kéo tai heo gấp xuống đến chỗ nào, là đặt dao ngay chỗ đấy. Gọn gàng một thủ lợn tay nghề.
            Như vậy, đầu heo và đầu đuôi thủ vỹ là sự phân biệt rõ rang.
            Mỗi khi khấn tế tạ ơn đất đai, làm ăn lớn, khai trương nhà hàng…, tùy theo tâm nguyện dã hứa mà y lời, nhưng thường nhất, vẫn là vào dịp cuối năm, nhiều gia đình bái tạ ơn trên bằng lễ vật đầu đuôi thủ vỹ.

            Lệ làng, ơn đất, cội nguồn vẫn là muôn thuở  đất lề quê thói.

Đầu năm cúng gà

Võ Khoa Châu

Tục ngữ có câu:

                                    Đầu heo đặt xây ra,
Đầu gà đặt xây vô.
cho chúng ta một khái niệm về quy luật vị trí bày biện lễ vật trước bàn hương án.
          Tục lệ cổ truyền của dân ta, ngày đầu năm mới, thường cúng gà để tạ ơn tiên tổ, ông bà, đất đai, vườn tượt (nội gia viên trạch) cầu được lộc phước trọn năm.
Bài vè sau đây có thể cho ta biết rõ về cách coi giò gà, thông qua giò gà đoán định sự tốt xấu, điềm dữ lành, điều vạ gió tai bay, buổi thịnh suy biến đổi của đời người, của thời cuộc bể dâu. Cũng qua giò gà, người ta úc đoán năm tang chế buồn phiền, tháng đi thi đắc lộ, gặp bạn tốt đặng mừng, tránh người hung, kẻ dữ. Hoặc là bán buôn đại lợi, hoặc gặp kẻ xấu vu oan, gặp lúc cửa nhà tan hoang, hay đặng khi thời lai phong tống, lời nhường nhịn chấp tranh…
Từ màu sắc chân gà đã luộc cho đến vị trí các móng chân, úp cong vào, hay hở hang ra, màu gân máu, da hồng tươm mỡ…Tất thảy, từ đôi chân gà luộc tự nói những điều rủi may.  Chúng ta có thể coi bài vè cúng gà sau đây như một quy lệ bất thành văn, giúp ta làm thầy bói trước khi chúc nhau năm mới an khang thịnh vượng:
                                    Đầu năm ra mắt cúng gà
Cúng ông Hành Khiển cùng là Hành Binh
Coi giò phải bói cho tinh
Xem tường màu sắc thân hình rủi may
Đôi giò cần để thẳng ngay
Nhuận hồng vàng ánh năm nay mới giàu
No nồi 1 chân móng sít sao
Đỡ cái 2 chặt chẽ mới giàu mới sang
Đỏ mà gân máu nổi loang
Là điềm hao của tan hoang cửa nhà
Trắng xanh bềnh bệt thây ma
Ấy điềm tang chế ông bà cháu con
Da gà tươi mướt vàng son
Đi thi mới đậu, đi buôn mới lời
Khe chân gà hở tơi bời
Tiền vô rồi cũng phủi rồi tay không
Ba ngón đội lên một chồng
Tốt thì có tồt phải phòng người trên
Nhờ người giúp đỡ mới nên
Tự mình tự chủ không bền đặng lâu
Cùng ba ngón chân chụm đầu
Một hàng ngang mặt thúng đâu đựng tiền
Ngón cái mà cong nghiêng nghiêng
Đâm vào khe hở lụy phiền đến nơi
Oan phi khẩu thiệt tơi bời
Tai bay vạ gió biết đời nào yên
Nồi no như nở cười duyên
Da hồng tươm mỡ của tiền đầy kho
Da chân xam xám màu tro
Gân xương khô héo có lo cũng nghèo
Đôi giò cái  trễ cái treo
Bên cao, bên thấp nằm queo một mình
Da gà mỡ đọng lung linh
Làm dỡn được thiệt mặc tình vui chơi
Bốn ngón đều ngay lên trời
Nồi rọ xẹp lép thì thôi còn gì
Gặp năm tuổi xấu thêm nguy
Ốm đau tang chế quan phi tụng đình
Ngón chân rời rạc thân hình
Thiếu người giúp đỡ, thiếu tình hữu giao
Gặp cơn sóng gió ba đào
Một tay lèo lái ai nào giúp ta
Chân gà cấm hở quẹo ra
Da gà tươi nhuận mới là bình an
Cúng gà ra mắt nghiêm trang
Làm gà  cho kĩ  luộc càng thêm tinh
Có kiêng chắc có thần linh
Cầu ông Hành Khiển, Hành Binh hộ trì
Cho nhà gặp hội lễ nghì
Tết về lại một chu kì đầu năm.
           Ba ngày đầu năm, ngắm nghía giò gà, đoán lui bói tới, bàn luận đôi câu, cũng lắm điều thú vị. Nhưng hãy nhớ ngắm cho kỹ, luộc cho khéo, kẻo biết đâu già lửa, nước trào sôi, hay mới chín tới đã vội vớt gà ra, làm biến lệch sắc màu, nứt nẻ gân da, giò gà khô cứng.. mà sinh ra nhầm quẻ!
            Nay, việc coi giò gà không làm bận lòng trong tiến trình thực hiện nếp sống văn hóa văn minh đô thị.



1 Nồi, là phần ở giữa chân gà.
2 Đỡ cái - là ngón chân cái giò gà đỡ cao.

Chợ tết Bảo An xưa

Phan Thị Miều

Những năm trước 1945, chợ Bảo An là một chợ tương đối lớn so với các chợ trong vùng Gò Nổi. Lớn vì nhiều tiệm ngói, hàng hóa dồi dào, người mua bán đông đúc, lại có một chợ cá biển tươi ngon. Chợ nằm ở vị trí trung tâm của làng, trên trục đường công hương nối liền hai làng Xuân Đào và La Kham nên thu hút nhân dân từ nhiều ngã: Xuân Đài, Bàn Lãnh, Đông Bàn, La Kham, Van Lý, Tư Phú, Ben Đền. Cả đến bà con các làng Vĩnh Trinh, Thọ Sơn nay thuộc xã Duy Châu huyện Duy Xuyên cũng sang chợ này mua thực phâm hoặc các vật dụng cần thiết.
Ngày thường, chợ đông mỗi ngày hai buổi, nhưng ngày Tết cao điểm từ 25 đến 30 tháng chạp, chợ đông cả ngày, lúc nào cũng có người mua kẻ bán tấp nập. Hàng hóa ở các tiệm được bày ra nhiều hơn, đa dạng hơn, màu sắc cũng rực rỡ hơn. Ngày thường, những tiệm này chỉ bán vải tấm, hàng lụa dùng cho may mặc, vải sợi đê dệt, nhưng ngày Tết, họ bày ra tận cửa nào là độc bình, lọ cắm hoa, chân đèn, nồi hương, liễn đối màu sắc rực rỡ. Có tiệm còn bán nhiều loại pháo, cả loại pháo dây mà khi đốt lên, chỉ cháy xèo xèo một lúc rồi hết, bọn trẻ con rất thích. Trong chợ, còn có những người đàn ông bán dạo các thứ đồ chơi như lung tung, gà kéo, những con vật bằng bột xanh xanh đỏ đỏ, họ rao mời các bà, các mẹ mua về cho con cháu chơi ba ngày xuân nhựt. Gian hàng đồ vàng mả của bà Đống Quý treo la liệt quần áo, nón mũ, giày dép bằng giấy ngũ sắc cũng rất đông khách. Họ mua những thứ này để chiều 30 cúng rước ông bà, ông bà phải có quần áo để mặc Tet.
Các bà mẹ, bà chị còn lo sắm quần áo mới cho con trẻ, ít nhất mỗi cháu phải được một chiếc áo. Hồi xưa không có quần áo may sẵn như bây giờ, nên mua được vải rồi, còn phải nài nỉ chú thợ may. Chú Hương Nhì, thợ may khéo nhất chợ Bảo An đang tất bật trả hàng cho khách. Thấy một chị cầm vải đến nhờ đo, cắt may, chú nói:
-   “Chị ơi, chị đem qua tiệm ông Mười, chớ tôi còn cả đống vải, cả vợ cả chồng cắm đầu vô bàn máy, chưa lo được Tết nhứt chi hết!”
Bà khách năn nỉ: Tui may tiệm chi quen rồi, chú chịu khó giùm tui, chiều 29 tui tái lấy cho cháu nó mừng!
Nè khách quen, chú Hương cũng phải nhận xấp vải. Chú chép miệng:
“Rứa là tui phải may ban đêm mới kịp!
Bên cạnh tiệm may là tiệm hớt tóc của anh Huệ, chú Châu, hai tiệm đều đông khách, người đang được cắt, người phải ngồi chờ cho đến lượt mình.
Chợ Tết Bảo An còn có nét đặc biệt hơn các chợ là có một ngôi đình thị chuyên dùng đế các gian hàng bày bánh trái các loại bán cho khách mua về cúng quảy. Bánh này do các bà, các cô trong làng làm ra chứ không phải do thợ chuyên nghiệp nhưng cũng đủ loại, bắt mắt về hình thức và đảm bảo về chất lượng: Bánh thuẩn nở, bánh thuẩn dòn, bánh bò ba tai trắng mướt, bánh bò ngũ sắc, bánh in bột đậu, bánh in bột nếp, bánh nổ, bánh da, bánh bảy lửa.
Đến các ngày 28, 29, 30 còn có thêm hai loại bánh tổ và bánh tét. Đình thị chỉ độ năm mươi mét vuông, nên có vẻ chật chội. Người mua bánh đi lại tấp nập, có lúc phải chen lấn nhau để xem cho rõ bánh gì, và tìm hàng người quen mình đã mua Tết trước đế chọn bánh ngon bảo đảm chất lượng.
Khách mua phần lớn là các bà, các cô, nhưng thỉnh thoảng cũng có bóng nam giới. Các ông, các cậu này chỉ dạo xem chớ không mua gì. Có vài bà thầm thì với nhau: “Họ đi coi mắt vợ đó” rồi cười tủm tỉm. Các bà đoán vậy vì ở vài gian hàng bánh, người bán là mấy cô gái trẻ.
Trong chợ Tết, các hàng thịt nhiều gấp đôi ngày thường, nhất là ở các buổi chợ 29, 30. Trong dân gian có câu “Đói cũng ngày Tết, hết cũng ngày mùa”, nên dẫu nhà túng thiếu đến đâu cũng cố chạy vạy mua cho được miếng thịt ngon về cúng ông bà ngày Tết.
Không chỉ có thịt mà còn xương, lòng, giò, chả bày đầy sạp, rất bắt mắt khiến người mua khó bỏ qua.
Trong khoảnh đất rộng gần đình thị, có mấy dãy lều tranh thì trong phiên chợ Tết cũng đầy ắp các hàng mỳ bún, trầu cau, và các hàng khô khác. Các chị hàng trầu tay bửa cau thoăn thoắt, mời các bà: “Câu dày khô, ruột tận dừa, mợ mua ít chục về cúng mợ ơi!”
Hàng đồ gốm không còn lều, phải bày ra ngoài trời, nào là nồi, trả, vung đủ cỡ, cùng những chiếc bùng binh to nhỏ. Có bà cũng mua vài chiếc về cho con cháu bỏ tiền lì xì. Nồi trã đất cũng được người đi chợ Tết mua về để thay những cái cũ bị sứt mẻ hay vỡ nát. “Năm mới, cái gì cũng phải tử tế, nguyên vẹn thì làm ăn mới nên nỗi” đó là quan niệm xưa nay của ông bà ta.
Ngày Tết, ở quê tôi không có tục cúng cá, chỉ cúng thịt heo, thịt gà, nhưng năm nào trong phiên chợ Tết cũng có nhiều cá biển tươi ngon, toàn là cá thu, cá rựa, cá chim, cá hố. Cá thu rất to, người bán phải dùng dao thớt, cắt cá ra từng lát, vừa cắt vừa rao:
“Cá thu to đây, mời các bà các cô lại mua vài lát về cúng Tết!”
Có người đi lơ vì bận mua các thứ khác cần thiết hơn cho ngày Tết, có người thấy cá ngon và rẻ, cũng ghé lại mua vài lát. Trong khu chợ cá Bảo An, còn có hàng tôm cua tươi và rau sống Phố của một ông già và một bà già chuyên bán quanh năm. Hai người tuổi khoảng năm sáu mươi, nước da đen sẫm, thân hình rắn chắc, hầu như họ không vắng buổi chợ nào, trừ khi mưa lụt, bão bùng. Họ mua tôm cua, rau sống tại chợ Hội An, rồi đi ghé lên đến An Trường là gánh chạy bộ lên chợ, cùng lúc với những người buôn cá biển. Hầu như họ chỉ nghỉ Tết trong ngày mồng một, mồng hai. Ngày mồng ba, nếu ai đi chợ là đã thấy cặp đôi ấy có mặt ở chợ với rổ tôm cua và rổ rau sống Phố.
Chợ Tết từ bao đời nay là một nét đẹp của văn hóa người Việt nói chung, và Quảng Nam - Đà Nng nói riêng.
Đi chợ Tết không những chỉ để mua sắm hàng hóa, thịt thà, bánh trái đế về ăn Tết, mà còn đi xem thử chợ năm nay có gì khác chợ Tết các năm trước về mặt hàng, về giá cả không. Đi chợ Tết còn để ngắm nghía và tận hưởng cái hương vị mua sắm của bà con trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc.
Đã đôi lần đi chợ Tết ở quê tôi, tôi có một nhận xét là người bán không nói thách mà chỉ bán đúng giá. Tôi cho rằng họ quý thì giờ, cái thì giờ của những ngày cuối năm không cho phép ta mặc cả nhiều, mà phải nhanh nhạy mới kịp thời gian.
Người bán không nói thách thì người mua vừa không mất thì giờ vừa không bị mua hớ. Đó là một nét đẹp.

Ngày nay, từ thôn quê đến thành phố, hàng hóa phong phú, đầy dẫy trong các chợ, không phải chỉ đợi Tết mới dồi dào. Tuy nhiên, dù sao, ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta vẫn còn những nét đẹp, những ý nghĩa thiêng liêng, làm chúng ta dù trẻ hay già đều vẫn ước ao một lần đi chợ Tết.