Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012
Cái mâm trong văn hóa ẩm thực Quảng Nam, Đà Nẵng
Phan Thị Miều
Trên
khắp vùng đất Quảng
Ngày Tết hoặc kỵ giỗ, nhiều món ngon được
nấu nướng công phu, múc vào dĩa, bát xếp trên mâm gội là mâm cỗ.
Trong đám cưới, đám hỏi, buồng cau tươi say
trái hoặc những miếng cau khô dính hột, những liển trầu được xếp khéo léo gọn
gàng, đẹp mắt trên mâm, đặt lên bàn cùng với các lễ vật khác để trình cho hai
họ, được gọi là mâm trầu mâm cau.
Mâm có nhiều loại: loại bằng đồng, bằng
thau, bằng nhôm, bằng gỗ.
Ngày xưa, mâm cơm của nhà giàu hay của quan
chức là mâm thau, mâm đồng vàng chóe. Mâm thau, mâm đồng cũng có loại trơn,
loại chạm hoa văn, loại có 3 chân, loại không chân. Các nhà dân bình thường,
hầu hết dùng mâm gỗ. Mâm gỗ phần nhiều làm bằng gỗ mít, có tính bền, ít nứt nẻ.
Một chiếc mâm trung bình có đường kính khoảng 40 phân, vành độ 3 phân. Mâm gỗ
vừa rộng rãi, vừa chắc chắn, đựng được nhiều bát đĩa, cứng cáp khi di chuyển,
mâm gỗ cũng có hai loại, loại gỗ mộc và loại gỗ sơn. Mâm gỗ sơn thường được sơn
màu son, mâm son, đồng nghĩa với quý phái, sang trọng nên có câu:
Mâm son bát sứ đưa lên hầu bà
Trong
các gia đình quá nghèo ở nông thôn, chiếc mẹt tre được thay thế cho cái mâm
trong mỗi bữa cơm. Chiếc mẹt hình tròn đan bằng tre, ngoài có vành được nức
bằng mây chắc chắn, là vật dùng để phơi các loại nông sản số lượng ít như đậu,
mè. Nẹt có nơi gọi là trẹt. Trên chiếc trẹt, chỉ có dĩa rau luộc, chén mắm để
chấm và bát canh rau lỏng bỏng nước, họa hoằn mới có dĩa cá vụn kho khô.. Có
nhà còn dùng cái sàn là vật dùng để sàn gạo, thay cho cái mâm. Sàng cũng bằng
cái trẹt nhưng đan lồng mốt nan sưa để hạt gạo, hạt thóc lọt xuống nia.
Câu ca dao:
Đặt
lên quảy mẹ, ruột đau như giần.
Nói lên hoàn cảnh người con hiếu thỏa nhưng quá
nghèo, ngày giỗ mẹ không sắm được gì mà chỉ có rau luộc và muối, lại không có cả
bát, dĩa, mâm, phải dùng cái sàng mà đựng rau.
Trong dân gian, còn có rất nhiều thành ngữ,
tục ngữ, ca dao nói về cái mâm trong ẩm thực. Như câu: Đũa mốc mà chòi mâm son để nói người ở địa vị thấp kém trong xã hội
mà không tự biết mình, muốn giao du với người ở địa vị cao hơn, hoặc giàu có
hơn mình.
Câu: Một
mâm cẩn sui không bằng mui cá chuồn để ca ngợi cái ngon của mui cá chuồn,
nhưng trên thực tế sự so sánh này cũng chưa chính xác.
Câu hát :
Con quạ nó
đứng bên sông
Nó
kêu bớ mẹ lấy chồng bỏ con
Một
mâm ba bốn dĩa ngon
Dượng
ghẻ ních hết để con nhịn thèm.
Đó là tâm trạng của một đứa trẻ mồ côi cha,
lo rằng mẹ tái giá, gặp phải ông dượng ghẻ ích kỷ, chỉ biết ăn ngon mặc đẹp
phần mình, để đứa trẻ chịu thiệt thòi.
Câu ca dao:
Đôi ta làm
bạn thong dong
Như
đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi
chưng cha mẹ nói ngang
Cho
nên đũa ngọc mâm vàng cách xa.
Đũa ngọc, mâm vàng nói lên sự
xứng đôi vừa lứa của đôi bạn trẻ, nhưng do những ý kiến không thống nhất của
hai bên cha mẹ nên duyên nợ không thành. Câu hát ngụ ý trách cha mẹ.
Một câu khác:
Ai về nhắn
với bà gia
Dọn
đàng, quét ngõ tháng ba dâu về
Dâu
về dâu chẳng về không
Ngựa
ô đi trước ngựa hồng theo sau
Mâm
trầu lại có mâm cau
Có
con nho nhỏ theo sau mà hầu.
Câu này mô tả một đám cưới sang
trọng, cô dâu được rước về nhà chồng bằng ngựa ô, ngựa hồng với mâm trầu cau
làm lễ vật, và cả người hầu. Nhưng những ý trong câu này nói lên sự kênh kiệu,
cao ngạo của cô dâu như “nhắn với bà
gia”,”dọn đàng quét ngõ”, tỏ ra cô dâu này không lễ độ với mẹ chồng, nhắn
bà phải dọn đàng quét ngõ để đón mình.
Câu ca dao:
Trời mưa cho lúa chín vàng
Cho
anh đi gặt cho nàng đem cơm
Đem
thì bát sứ mâm son
Chớ
đem mâm gỗ anh hờn không ăn.
Nhân vật “anh” trong câu ca dao
này là nông dân lao động một nắng hai sương, lại yêu cầu “em” phải đem cơm
trong mâm son bát sứ là một đòi hỏi quá đáng.
Một cô gái muốn khoe với bạn trai rằng nhà
mình cũng giàu có, không thua chi nhà chàng bằng mấy câu:
…Bữa ăn chả phụng nêm công
Gạo
lúa nhe giã trắng nấu nồi đồng vỏ cua
Mâm
thau bát bịt thêu thùa
Đũa
mun bịt bạc không thua chi nhà chàng !
Dân tộc Việt nam ta nói chung và Quảng Nam ,
Đà Nẵng nói riêng từ bao đời nay đã dùng cái mâm để đựng thức ăn trong bữa cơm
thường ngày cũng như các bữa kỵ giỗ vừa trang trọng, vừa hợp vệ sinh. Có lẽ đây
cũng là một nét đẹp trong văn hóa ẩm thực cần giữ gìn, lưu lại muôn đời sau. (10-2012).
Trên
khắp vùng đất Quảng
Ngày Tết hoặc kỵ giỗ, nhiều món ngon được
nấu nướng công phu, múc vào dĩa, bát xếp trên mâm gội là mâm cỗ.
Trong đám cưới, đám hỏi, buồng cau tươi say
trái hoặc những miếng cau khô dính hột, những liển trầu được xếp khéo léo gọn
gàng, đẹp mắt trên mâm, đặt lên bàn cùng với các lễ vật khác để trình cho hai
họ, được gọi là mâm trầu mâm cau.
Mâm có nhiều loại: loại bằng đồng, bằng
thau, bằng nhôm, bằng gỗ.
Ngày xưa, mâm cơm của nhà giàu hay của quan
chức là mâm thau, mâm đồng vàng chóe. Mâm thau, mâm đồng cũng có loại trơn,
loại chạm hoa văn, loại có 3 chân, loại không chân. Các nhà dân bình thường,
hầu hết dùng mâm gỗ. Mâm gỗ phần nhiều làm bằng gỗ mít, có tính bền, ít nứt nẻ.
Một chiếc mâm trung bình có đường kính khoảng 40 phân, vành độ 3 phân. Mâm gỗ
vừa rộng rãi, vừa chắc chắn, đựng được nhiều bát đĩa, cứng cáp khi di chuyển,
mâm gỗ cũng có hai loại, loại gỗ mộc và loại gỗ sơn. Mâm gỗ sơn thường được sơn
màu son, mâm son, đồng nghĩa với quý phái, sang trọng nên có câu:
Mâm son bát sứ đưa lên hầu bà
Trong
các gia đình quá nghèo ở nông thôn, chiếc mẹt tre được thay thế cho cái mâm
trong mỗi bữa cơm. Chiếc mẹt hình tròn đan bằng tre, ngoài có vành được nức
bằng mây chắc chắn, là vật dùng để phơi các loại nông sản số lượng ít như đậu,
mè. Nẹt có nơi gọi là trẹt. Trên chiếc trẹt, chỉ có dĩa rau luộc, chén mắm để
chấm và bát canh rau lỏng bỏng nước, họa hoằn mới có dĩa cá vụn kho khô.. Có
nhà còn dùng cái sàn là vật dùng để sàn gạo, thay cho cái mâm. Sàng cũng bằng
cái trẹt nhưng đan lồng mốt nan sưa để hạt gạo, hạt thóc lọt xuống nia.
Câu ca dao:
Đặt
lên quảy mẹ, ruột đau như giần.
Nói lên hoàn cảnh người con hiếu thỏa nhưng quá
nghèo, ngày giỗ mẹ không sắm được gì mà chỉ có rau luộc và muối, lại không có cả
bát, dĩa, mâm, phải dùng cái sàng mà đựng rau.
Trong dân gian, còn có rất nhiều thành ngữ,
tục ngữ, ca dao nói về cái mâm trong ẩm thực. Như câu: Đũa mốc mà chòi mâm son để nói người ở địa vị thấp kém trong xã hội
mà không tự biết mình, muốn giao du với người ở địa vị cao hơn, hoặc giàu có
hơn mình.
Câu: Một
mâm cẩn sui không bằng mui cá chuồn để ca ngợi cái ngon của mui cá chuồn,
nhưng trên thực tế sự so sánh này cũng chưa chính xác.
Câu hát :
Con quạ nó
đứng bên sông
Nó
kêu bớ mẹ lấy chồng bỏ con
Một
mâm ba bốn dĩa ngon
Dượng
ghẻ ních hết để con nhịn thèm.
Đó là tâm trạng của một đứa trẻ mồ côi cha,
lo rằng mẹ tái giá, gặp phải ông dượng ghẻ ích kỷ, chỉ biết ăn ngon mặc đẹp
phần mình, để đứa trẻ chịu thiệt thòi.
Câu ca dao:
Đôi ta làm
bạn thong dong
Như
đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi
chưng cha mẹ nói ngang
Cho
nên đũa ngọc mâm vàng cách xa.
Đũa ngọc, mâm vàng nói lên sự
xứng đôi vừa lứa của đôi bạn trẻ, nhưng do những ý kiến không thống nhất của
hai bên cha mẹ nên duyên nợ không thành. Câu hát ngụ ý trách cha mẹ.
Một câu khác:
Ai về nhắn
với bà gia
Dọn
đàng, quét ngõ tháng ba dâu về
Dâu
về dâu chẳng về không
Ngựa
ô đi trước ngựa hồng theo sau
Mâm
trầu lại có mâm cau
Có
con nho nhỏ theo sau mà hầu.
Câu này mô tả một đám cưới sang
trọng, cô dâu được rước về nhà chồng bằng ngựa ô, ngựa hồng với mâm trầu cau
làm lễ vật, và cả người hầu. Nhưng những ý trong câu này nói lên sự kênh kiệu,
cao ngạo của cô dâu như “nhắn với bà
gia”,”dọn đàng quét ngõ”, tỏ ra cô dâu này không lễ độ với mẹ chồng, nhắn
bà phải dọn đàng quét ngõ để đón mình.
Câu ca dao:
Trời mưa cho lúa chín vàng
Cho
anh đi gặt cho nàng đem cơm
Đem
thì bát sứ mâm son
Chớ
đem mâm gỗ anh hờn không ăn.
Nhân vật “anh” trong câu ca dao
này là nông dân lao động một nắng hai sương, lại yêu cầu “em” phải đem cơm
trong mâm son bát sứ là một đòi hỏi quá đáng.
Một cô gái muốn khoe với bạn trai rằng nhà
mình cũng giàu có, không thua chi nhà chàng bằng mấy câu:
…Bữa ăn chả phụng nêm công
Gạo
lúa nhe giã trắng nấu nồi đồng vỏ cua
Mâm
thau bát bịt thêu thùa
Đũa
mun bịt bạc không thua chi nhà chàng !
Dân tộc Việt nam ta nói chung và Quảng
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét