Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

Con người với thiên nhiên...


Đồng Dao

      Trong suốt thời kì đấu tranh chống ách thống trị  của đế quốc phong kiến xâm lược, nhân dân ta nhiều phen lật đổ chính quyền của bọn đô hộ. Với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 thì  mới chấm dứt được ách thống trị của phong kiến phương Bắc và mở đầu thời kì của quốc gia độc lập. Tất cả thể hiện niềm tự hào về Tổ quốc, dân tộc.
      Khối cộng đồng người Việt vốn rất chặt chẽ từ  thời kì trước (vì đời sống cộng đồng đòi hỏi mọi người phải sống nương tựa vào nhau nên tính tập thể là đặc điểm tối ưu) càng được củng cố sau cuộc đấu tranh lâu dài đuổi ngoại xâm. Vì vậy sau khi giành độc lập thì ý thức về một đất nước càng thể hiện rõ.
      Với Việt Nam, thời trung đại chính là thời kì phong kiến. Ở đây, Văn hóa trung vừa thuộc phạm trù lịch sử vừa thuộc phạm trù giá trị. Và quan hệ giữa con người và tự nhiên trong văn hóa trung đại thể hiện khá rõ trong văn học- bởi văn học cũng chính là đời sống.
      Đối với người Việt Nam, tố chất cơ bản nuôi sống con người là hạt gạo bát cơm. Nghề sinh sống cơ bản xưa nay là nghề trồng lúa nước, đó cũng là cơ sở hình thành nên văn hóa Việt Nam - văn hóa làng xã. Có thể nói đây là yếu tố cơ bản để Việt Nam không bị Trung Hoa đồng hóa trong ngàn năm Bắc thuộc. Chúng ta vẫn thường cho rằng văn hóa là cách ứng xử thích hợp với thiên nhiên làm nên lối sống, nếp sống của một cộng đồng hay xã hội. Hay nói cách khác, văn hóa là những biểu hiện trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
      Như  đã nói, nước ta bắt đầu với nền văn minh nông nghiệp nên lẽ đương nhiên phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Đặc biệt trong thời phong kiến, khoa học kĩ thuật chưa là công cụ đắc lực cho con người như ngày nay. Chính vì vậy, con người và tự nhiên có mối quan hệ vô cùng gắn bó, mật thiết. Một mặt con người tôn sùng, tín ngưỡng trước những hiện tượng tự nhiên; một mặt cũng lo sợ trước thiên nhiên biến hóa không cùng, ngoài vòng kiểm soát của họ.
      Là  một dân tộc sống bằng nghề nông, phụ thuộc vào thiên nhiên nặng nề nên chưa có một vũ  trụ quan có hệ thống mà chỉ có những tín ngưỡng nguyên thủy. Đầu tiên là thờ các thần tự nhiên như thần mặt trời, thần nước, thần sông, mây mưa, sấm chớp…sau đó là thờ thần lúa với rất nhiều lễ nghi, lễ hội như: rước nước, lễ xuống đồng, lễ cơm mới. Long Quân diệt ba con chằn tinh ở ba vùng cho dân yên ổn làm ăn thì đất nước có ba vùng. Cùng với sự trồng lúa nước có sự phát triển của chăn nuôi và những hoạt động sinh sống khác từ trước vẫn còn tiếp tục (chài lưới, săn bắn) nên việc thực hiện tín ngưỡng phồn thực hay thờ sinh thực khí của nam và nữ cũng xuất hiện.
      Đi gần tới việc trời đất, vạn vật được sinh ra thế nào thì truyền thuyết. thần thoại nước ta không thiếu những lời kiến giải ngây thơ. Vẫn là thần, nhưng thần Trụ Trời là người đã tách trời khỏi đất, làm nên sông hồ, núi non. Tiếp theo đó là những “ông”: ông tát bể, ông kể sao, ông trồng cây, ông xây rú. Những Ông ấy được tạo ra từ hình dáng con người và chính con người với sức lao động của mình- cả cơ bắp lẫn tư duy- đã tạo ra thế giới ấy. Trường ca anh hùng của người Mường “Mo đẻ đất đẻ nước’ rõ rệt, trọn vẹn hơn cả. Trong đó có lời kể về cả một quá trình sáng tạo vũ trụ, hình thành nên muôn loài, hình thành con người và xã hội loài người.
      Thời trung đại, con người chưa nhìn tự nhiên như một khách thể và mình là chủ thể. Đối với con người trung đại, tự nhiên là để tiêu dùng chứ không còn ý nghĩa nào khác. Bởi vì nông nghiệp là chủ yếu nên con người khai thác tự nhiên mà sống. Dần dần sau đó, con người thấy mình trong tự nhiên, bắt đầu từ thân thể. Người ta vẽ mắt vào đằng mũi thuyền để tránh đá ngầm, nước xoáy; hoa sen tượng trưng cho đức Phật; hay, “cổ tay em trắng như ngà, con mắt em sắc như là dao cao, miệng cười như thể hoa ngâu, chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen”. Người ta nhìn thấy một phẩm chất nhất định và tốt đẹp ở sự vật và bản thân mình cũng có phẩm chất ấy nên gán luôn cho cảnh vật: phẩm chất kiên cường, bất chấp gian nan, thử thách ở cây tùng cây bách “tuế hàn nhi tri rùng bách chi hậu điêu”
      Trong quá trình tiến hóa của xã hội tự nhiên thì việc xuất hiện của con người được xem là một kết quả của quá trình phát triển vượt bậc. Con người là một động vật bậc cao với sự phát triển hoàn chỉnh của bộ não và đôi tay được xem là một thành tựu. Cùng với sự phát triển đó của con người thì rất nhiều quan niệm khác về con người ra đời.
      Nền giáo dục Nho học thì thường chú trọng vào khía cạnh đạo đức, chỉ quan tâm đến ứng xử  xã hội của con người. Đó cũng chính là yếu tố cốt lõi để phân biệt con người này với con người khác trong một xã hội. Ngược lại, phương Tây thì lại có quan niệm thực tế hơn, con người hay con vật khác nhau ở khả năng nhận thức, tư duy. Còn những triết gia hiện đại thì đề cao tư cách cá nhân của con người.
      Tự  nhiên nước ta nằm trong miền khí hậu nhiều nắng nóng, mưa ẩm quanh năm, có nhiều sông ngoài, ao hồ và có trên 3000 km bờ biển. Điều kiện tự nhiên ấy rất thuận lợi cho thực vật phát triển và phù hợp với đời sống con người trong xã hội săn bắt hái lượm. Tuy nhiên, khi dân số tăng lên, tự nhiên không đủ để duy trì cuộc sống của con người. Lúc đó, con người sẽ sang một thời kì khác- thời kì đồ đá mới. Với công cụ lao động là rìu, đá …đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc so với những thời kì trước. Con người bắt đầu tiến mạnh xuống trung du và đồng bằng, chặt phá cây, mở rộng đất đai canh tác. Con người thuần dưỡng cây lúa hoang thành cây lúa nước theo mùa vụ
      Cùng với nguồn gốc đó, ta thấy ở các đền Hùng đều thờ những vỏ trấu rất to làm bằng gỗ, có sơn son thếp vàng. Hoặc câu chuyện chàng Lang Liêu lấy gạo nếp và đỗ xanh chế ra bánh chưng bánh dầy làm lễ vật dâng vua cha, được vua cha truyền ngôi cho.
      Vì  là nền văn minh nông nghiệp, lại chưa có nhiều công cụ nên con người sản xuất dựa vào phỏng đoán của mình vào tự nhiên là chủ yếu “  trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa” hay “  chuồn chuồn bay thấp thì mưa…”. Lúc này, con người cũng bắt đầu tìm cách tác động vào tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ mình như đắp đê ngăn nước, làm thủy lợi dẫn nước…nhưng cơ bản vẫn lệ thuộc vào thiên nhiên. Với cuộc sống như vậy, con người luôn là nhân tố quan trọng trong công cuộc lao động sản xuất. Họ luôn xem “ người sống đống vàng”, “ người ta là hoa đất”. Với họ, con người còn quan trọng hơn của cải, họ có thể mất của chứ không thể mất người “của đi thay người” “còn người còn của ”…
      Trong lao động sản xuất, con người không nắm bắt được những quy luật của hiện tượng tự nhiên mà chỉ có thể dự báo dựa trên những kinh nghiệm của mình là chủ yếu “trăng quầng trời hạn trăng tán trời mưa”, “ráng mỡ gà có nhà thì giữ” hay “tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông”…Lúc bấy giờ, thiên nhiên với con người vẫn là điều bí ẩn. Trước những hiện tượng thiên nhiên mà họ không thể chống chọi hoặc lí giải được thì họ lại thần thánh hóa nó lên và gắn cho nó một sự tích hay một hình tượng nào đó để thờ cúng như Sơn Tinh Thủy Tinh gắn với hiện tượng lũ lụt hằng năm; thủy triều lên xuống với họ là thần biển đang hít thở; sấm chớp mây mưa đều do các thần tạo ra. Như vậy, thiên nhiên là nguồn cung cấp, nuôi dưỡng sự sống cho họ nhưng đồng thời cũng là kẻ thù mà họ chưa thể chống chọi lại được.
      Gia đình cơ bản của người Việt là một chồng một vợ và các con chưa trưởng thành cùng sinh hoạt trong một không gian theo chế độ phụ quyền. Gia đình kiểu này hình thành từ thời kì trước khi cuộc sống tự sản xuất ra của cải để nuôi mình phát triển thì đàn ông trở thành lao động quan trọng trong gia đình. Trong gia đình Việt Nam gắn với nền kinh tế tiểu nông là chính ấy, tuy là chế độ phụ quyền nhưng người đàn bà vẫn quán xuyến, lo toan, tần tảo kiếm ăn, thậm chí lo cho chồng con ăn học nên họ vẫn đóng vai trò quan trọng trong gia đình. Vì thế mới có truyền thống “lệnh ông không bằng cồng bà” người vợ là “ tay hòm chìa khóa” hay “ của chồng công vợ”…
      Nghề  nông nghiệp lúa nướcdiễn tiến theo từng giai đoạn nhỏ  nhưng phải hội tụ thành làng là một tất yếu tự nhiên xã hội, bởi nông nghiệp lúa nước phải gắn liền với trị thủy. Mà vấn đề trị  thủy phải đòi hỏi sức mạnh của cộng đồng mới có thể xây dựng hệ thống mương, đập chống hạn, đắp đê ngăn lụt. Như vậy, trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên thì đã bắt đầu xuất hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và bước đầu họ đã tiến hành thực hiện nó. Kinh tế nông nghiệp Việt Nam không chỉ đơn thuần có cây lúa mà còn có rất nhiều loại cây hoa màu khác cho củ, quả, hạt…cây lâu năm ăn trái và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nền tảng kinh tế ấy dĩ nhiên phụ thuộc nặng nề vào tự nhiên. Nghề nông gắn liền với trị thủy. Vấn đề trị thủy không giới hạn trong mỗi làng mà còn yêu cầu sức mạnh liên kết giữa các làng, vùng, miền. Và cứ thế, con người tất yếu phải cư trú thành làng. Thế nhưng làng không thể mở rộng không gian cư trú vô hạn định, bởi nó chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như phạm vi đất canh tác, điều kiện địa lí tự nhiên . . .
      Có  thể nói, văn hóa nông nghiệp lúa nước là nền văn hóa nhào nặn giữa Đất và Nước. Trường tồn trong lịch sử văn hóa Việt Nam đã diễn ra như  thế.
      Mở  đầu từ châu thổ sông Hồng, sông Mã khi nước biển bắt đầu rút dần thì con người tràn xuống trung du, đồng bằng tụ cư, khai phá đất đai, phát triển nghề lúa nước. Con người lúc này phải thường xuyên đối mặt với sự tấn công của thú dữ, lũ lụt, hạn hán và các thế lực ngoại xâm. Và trong quá trình chống chọi lại những thế lực đó tính cách con người hình thành.
      Con người Việt Nam giàu lòng nhân ái “lá lành đùm lá rách” , “của ít lòng nhiều”  . . .Con người Việt không phải sống theo kiểu “đèn nhà ai nhà nấy rạng” mà phải “tối lửa tắt đèn có nhau” cốt để cùng nhau tạo sức mạnh chống lại thiên tai. Vì thế người Việt thường “bán bà con xa mua láng giềng gần” và luôn cho rằng “ một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”.
      Trong các lĩnh vực khác của đời sống cũng vậy. Người Việt muốn “an phận thủ thường” nhưng lại khuyên nhau rằng “chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo” hoặc “ở bầu thì tròn ở ống thì dài” , “đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. Con người nông nghiệp lúa nước Việt Nam, về cơ bản, luôn khát vọng yên ổn hòa bình. Bởi họ nghĩ có “an cư” mới “lạc nghiệp”, có yên ổn thanh bình thì con người mới có thể làm ăn. Vì vậy họ trọng tình, “dĩ hòa vi quý”, “hiếu hòa hơn hiếu thắng”. Họ sẵn sàng “chín bỏ làm mười”, “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”. Sự bao dung, độ lượng cũng là nét tính cách của người Việt.
      Có  thể thấy rằng, văn hóa của con người trồng cấy Việt Nam là cái bản lĩnh biết nhu- cương, biết công biết thủ, biết “trông trời trông đất trông mây. Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm” rồi tùy thời mà làm ăn theo chuẩn mực “nhất thì nhì thục” ấy là khả năng ứng biến của con người Việt Nam, của lối sống Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
      Trong quan hệ với tự nhiên, con người tận dụng triệt  để môi trường tự nhiên để duy trì sự sống, để chống lại các thế lực ngoại xâm. Nếu như nhiều dân tộc coi ăn uống là chuyện tầm thường không đáng nói thì người Việt coi rất thiết thực, thậm chí công khai cho rằng “có thực mới vực được đạo”, nó quan trọng đến mức “trời đánh còn tránh bữa ăn”. Ngay cả khi tính thời gian cũng lấy ăn uống và cây trồng làm đơn vị: làm gì nhanh thì trong khoảng “giập bã trầu” lâu hơn thì “chín nồi cơm”, còn kéo dài lâu nữa thì tới “hai mùa lúa” . . .  
      Trong cơ cấu bữa ăn của người Việt cũng in đậm bản sắc lúa nước của mình. Không thể thiếu là  cơm, cà, dưa, rau rồi mới đến thịt. Cả trong phương thức ăn cũng thể hiện tính cộng đồng rất rõ-quây quần cả nhà bên nhau ăn uống vui vẻ.
      Trong việc ứng phó với môi trường tự nhiên, thể  hiện rõ nhất qua việc mặc. Việc mặc giúp con người ứng phó với cái nóng, rét, mưa, gió. Nhân dân ta đã nói một cách đơn giản: “được bụng no, còn lo ấm cật”. Vì vậy, cũng như trong chuyện ăn, quan niệm về mặc của người Việt Nam cũng là một quan niệm rất thiết thực “ăn chắc mặc bền” . . .
      Nhưng mặc không chỉ để ứng phó với môi trường tự nhiên mà còn có ý nghĩa xã hội rất quan trọng “quen sợ dạ, lạ sợ áo”. Mặc trở thành mục đích để trang điểm, làm đẹp “người đẹp vì lụa lúa tốt vì phân”, mặc giúp con người khắc phục những nhược điểm về tuổi tác “cau già khéo bổ thì non, nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa”.
      Ở xã hội Việt Nam cổ truyền bản chất của nông nghiệp là sống định cư nên con người ít di chuyển. Có đi thì cũng đi rất gần. Hoạt động chủ yếu của con người nông nghiệp Việt Nam là đi từ nhà ra ruộng, lên nương. Việt Nam là vùng sông nước, kênh mương chằng chịt và bờ biển dài. Bởi vậy, vấn đề đi lại từ ngàn xưa chủ yếu là đường thủy; và người Việt xưa giỏi bơi lặn, thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền. Sông ngòi phong phú thuận tiện cho giao thông đường thủy phát triển lại gây khó khăn cho giao thông đường bộ. Vì vậy Việt Nam hay có những cầu tre, cầu dừa, cầu dây . . . chính vì thế mà hình ảnh sông nước ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”, “ăn cỗ đi trước lội nước theo sau”, “thuyền theo lái gái theo chồng”. Người Việt hay nói “chìm đắm trong suy tư”, “thời gian trôi nhanh”, “ăn nói trôi chảy”, “thân bọt bèo”. Ngay cả khi đi bộ cũng nói theo kiểu đi trên sông “lặn lội đến thăm nhau”, “quá giang”. ..
      Những người sống bằng nghề sông nước thường lấy ngay thuyền, bè làm nhà ở. Nhiều gia đình quần tụ  lập nên xóm chài, làng chài. Ấn tượng với thiên nhiên sông nước mạnh đến nỗi nhà của người Việt thường được làm với chiếc mái cong mô phỏng hình thuyền. Chiếc mái cong ngoài hình ảnh con thuyền không có tác dụng thực tế gì cho nên về sau người bình dân thường làm thẳng cho giản dị, chỉ có những công trình kiến trúc lớn mới làm mái cong cầu kì.
      Bên cạnh việc xây nhà thì chọn hướng nhà cũng là cách tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự nhiên để ứng phó với nó. Hướng nhà tiêu biểu là hướng nam- vừa tránh được cái nóng từ phía tây, cái bão từ phía đông, gió từ phía bắc và tận dụng gió mát từ phía nam “gió nam chưa nằm đã ngáy” hay “cất nhà quay cửa vô nam, quay lưng về chướng không làm cũng có ăn”.
      Ngoài ra người Việt cũng rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng. Đến thời kinh tế hàng hóa phát triển, người Việt còn chú ý chọn vị trí giao thông thuận tiện “nhất cận thị, nhị cận giang” những đô thị có tốc độ phát triển nhanh đều là những đô thị gần biển, sông thuận tiện giao thông.
      Con người thời đại này quan niệm thiên, địa, nhân nhất thể “thiên thời địa lợi nhân hòa”. Con người, trời dất đều có cấu trúc âm-dương, có chung một cấu trúc vật chất. Nếu trời đất vận hành theo qui luật âm- dương hài hòa, ngũ hành biến hóa thì con người cũng vận hành theo qui luật đó. Sự biến chuyển của vật chất là một quá trình cuối cùng trở về lại cái ban đầu: thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Cứ như vậy vật chất biến hóa theo chu kì. Quan niệm đó dẫn đến lối giải thích duy tâm: mọi tài năng của con người đều do trời phú mà có:
Ngẫm hay muôn sự tại trời 
Trời kia đã bắt làm người có thân 
Bắt phong trần phải phong trần 
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
                                  (Nguyễn Du)
      Nhìn chung, con người đặt trong mối quan hệ với thiên nhiên là một quan hệ gắn bó không thể tách rời. Thiên nhiên nuôi sống con người, giúp con người chống lại những thế lực ngoại xâm nhưng thiên nhiên cũng là thế lực mà con người phải chống đỡ. Trong giai đọan trung đại Việt Nam, đối với con người thiên nhiên là một lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người cũng đã có những lúc run sợ trước những thế lực đó; Nhưng dần dần họ đã tìm ra nhiều cách để chinh phục thiên nhiên để phục vụ cho đời sống của mình.

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Trãi – Thơ và đời – NXB văn học;
2. Văn hóa Việt Nam – Đỉnh cao Đại Việt – NXB Hà  Nội;
3.Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam–Lê Trí Viễn–NXB văn nghệ Tp HCM.
4. Văn học Việt Nam – thể kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII – Đinh Gia Khánh chủ biên  – NXB Giáo dục

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

Dân gian dân tộc trong văn hóa Quảng


Võ Văn Hòe


            Điều chắc chắn rằng văn hóa dân gian đất Quảng sẽ không bị mất mát quá nhiều, đôi khi bị mai một hoặc biến tướng ngay trong đời sống cộng đồng người Quảng nếu như không có cuộc xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ suốt một thời gian dài trong lịch sử. Khi chiếm đất, thực dân hay đế quốc đều ra sức thực hiện giấc mộng biến con người nơi đây thành nô lệ thì tất nhiên văn hóa cũng theo đó bị nô lệ hóa hoặc bị gạt ra khởi đời sống cộng đồng của nó - nơi từ đó nẩy sinh nguồn văn hoá dân gian. Sau khi vào phương Nam nắng gió khai phá đất đai lập nghiệp, những lưu dân tại Quảng Nam đã mang theo nền văn hóa bản địa đi cùng để có thể vững tâm và an nhiên tồn tại, đồng thời tiếp thu, cải tạo nền nếp sinh hoạt văn hóa đã có trên vùng đất mới, xem như một thành tố mới được thiết lập. Nghĩa là những đặc trưng cơ bản của vùng miền từ quê cũ vẫn được duy trì, tạo tiền đề cho giữ gìn, phát huy, phát triển vốn văn hóa dân gian – dân tộc trên quê hương mới.
          Chắc chắn đã có một bộ phận văn hóa dân gian bị gạt ra khỏi đời sống nhân dân người Quảng, đôi khi tiêu cực hơn đã bị các lực lượng ngoại xâm tiêu diệt làm mất đi gốc gác văn hóa bản. Không, hoặc rất ít có cơ hội văn hoá dân gian được tiếp tục phát triển được trong cộng đồng. Một bộ phận hoặc thành tố văn hóa khác tích cực trụ bám, chống đỡ và bằng mọi cách tác động trở lại văn hóa ngoại nhập để giữ vững văn hóa bản, làm cho văn hóa bản có khả năng đề kháng lại sự xâm lăng văn hóa. Bộ phận này thường xuyên làm xuất hiện mâu thuẫn giữa văn hóa dân gian – dân tộc với văn hóa ngoại lai thâm nhập vào theo chân lực lượng ngoại xâm. Một bộ phận khác với nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau đã tìm mọi cách chạy thoát khỏi, tránh sự tiêu diệt hoặc bị đồng hóa bởi văn hóa ngoại lai thâm nhập vào đi kèm với quyền lực. Và trong trường hợp như vậy chắc chắn rằng khi chạy thoát chỉ kịp mang theo những gì quý giá nhất, căn bản nhất có giá trị dân tộc, vùng miền nhất đi theo. Biểu hiện của đặc trưng văn hóa này là các sinh hoạt văn hóa dân gian ngay tại nơi đấu tranh chống lại ngoại xâm để sinh tồn, mà nơi diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt để sinh tồn này thường diễn ra trong không gian nhà – làng – xóm. Đặc biệt vẫn trụ bám nơi không gian làng. Thế nhưng thật đáng tiếc, một thời gian dài các thiết chế cho văn hoá dân gian này trụ bám đã bị phá huỹ trong hai cuộc kháng chiến giữ nước, theo đó vốn văn hoá dân gian tìm cách đọng lại trong ký ức những người già.
          Chính vì vậy, qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, người đất Quảng không chỉ đấu tranh, phản ánh mối tương quan về mặt giai cấp thể hiện trong văn hóa dân gian mà còn đấu tranh về mặt dân tộc để bảo vệ văn hóa của mình. Bởi tại không gian văn hóa làng là nơi văn hóa dân gian lui về khu trú, giữ vững đặc trưng dân tộc, vùng miền vốn thường xuyên bị văn hóa ngoại lại thâm nhập làm phân rã, hoặc các lực lượng xâm lược tìm mọi cách để tiêu diệt. Sau một trăm năm hết thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ xâm lược, văn hóa dân gian đất Quảng có nguy cơ bị thất truyền – thì cũng xem như bị loại ra khỏi đời sống cộng đồng của người dân – nhiều hơn, nay đang tìm cách khôi phục và bắt đầu xây dựng lại. Tìm đâu ra khi khói lửa chiến tranh và cuộc sống không có tự do đã hủy hoại quá nhiều văn hóa, văn nghệ dân gian ? May thay còn các nghệ nhân nay đã là những người “thất thập cổ lai hy”, họ còn nhớ và giữ gìn trong ký ức những sinh hoạt văn hóa làng xã một thời. Trong điều kiện đó văn hóa dân gian đất Quảng  vẫn còn lưu giữ được những mảng màu như chính nó vốn có xưa nay, dẫu rằng không giống như văn học nghệ thuật đương đại hàn lâm nhưng rất quan trọng, bởi chính văn hóa dân gian đất Quảng là chất xúc tác, luôn là bệ phóng vững vàng và yên tâm cho văn hóa đương đại đất Quảng ngày nay phát triển.
          Chính đó, có thể nói rằng văn hóa dân gian đất Quảng luôn là nguồn cảm hứng như là văn hóa mẹ, văn hóa gốc cho nhiều thế hệ văn nghệ sĩ trên xứ sở “Trung dũng kiên cường” này lấy đó làm tiền đề cho các sáng tác của mình, không chỉ là văn chương thơ phú mà cho hết thảy các loại hình nghệ thuật. Những câu thơ lục bát mượt mà ngày nay há chẳng phải từ những câu ca dao dân dã ra đời trong đời sống lao động sản xuất đó sao! Nghệ thuật tuồng chẳng phải là sự kết hợp giữa âm nhạc dân gian với vũ điệu của những người chân lấm tay bùn mà có!...
          Thế nên, có thể thấy được rằng một khi rời khỏi lĩnh vực văn hóa, văn nghệ dân gian, xem như vai trò của văn hóa, văn nghệ dân gian không còn tác dụng hàm chứa các giá trị đặc trưng thì cũng đồng thời rời khỏi bản sắc văn hóa dân tộc – vùng miền, mất đi bệ phóng cần thiết cho sự thăng hoa phát triển đặc trưng dân tộc.
          Những sáng tác trên tất cả các loại hình nghệ thuật, rất dễ dàng nhìn thấy mối tương quan giữa văn hóa, văn nghệ dân gian và văn hóa hàn lâm đương đại đất Quảng chưa bao giờ có sự rời nhau; không những không rời xa mà còn chưa bao giờ thiết lập một đường ranh giới hẳn hoi “dân gian – không dân gian” ngay trên văn đàn đương đại.
          Chính đó, văn hóa văn nghệ dân gian được xem như bệ phóng, như văn hóa mẹ, nghĩa là mang đặc trưng dân tộc, vùng miền không phải do nó là dân gian mà bởi vì chính nó đã mang trong mình đặc trưng văn hóa dân tộc, văn hóa Quảng, đã từng tìm mọi cách thoát ra khỏi cuộc truy đuổi của thực dân, đế quốc để tồn tại.
          Nay, thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 16.6.2008 về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, đội ngũ văn nghệ sĩ trên quê hương “chưa mưa đà thấm” phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người; vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá – tinh thần ngày càng cao của nhân dân.

Gia phong


Võ Văn Hòe
                            
Gia phong là phép tắc trong gia đình, là nền nếp riêng của một nhà. Trước đây, gia đình người Quảng xây dựng gia phong theo hệ tư tưởng phong kiến. Theo đó, gia phong chính là cách nghĩ, cách ứng xử của một gia đình trong gia tộc, với các tộc họ khác trong làng và cả với quan hệ xã hội của một gia đình theo hệ trục nhà – làng – nước.
Gia phong không tách rời khỏi gia giáo, trong một gia đình có gia phong thích hợp, trước hết phải có gia giáo, do đó gia phong và gia giáo có mối quan hệ nhau, bổ sung cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Gia giáo có chức năng giáo dục, điều chỉnh hành vi của cá nhân trong gia đình, làm cho cá nhân tuân theo truyền thống tốt đẹp của gia đình như truyền thống hiếu học, truyền thống yêu nước, lao động cần cù trong sản xuất, sống có nghĩa tình, yêu thương nhau, kính trên nhường dưới… Chính đó, trong dân gian luôn có lời nhắc nhở: Công cha như núi Thái Sơn, Nghiã mẹ như nước trong nguồn chảy ra…Anh em như thể chân tay, Lá lành đùm lá rách đừng nói nhau nặng lời …là cách thể hiện sự giáo dục nhằm xây dựng gia phong tốt đẹp.
Gia phong không tách rời khỏi sinh hoạt chung của gia tộc, họ hàng và cộng đồng cùng cư trú trong làng được. Ngày xưa quan niệm Khắc kỷ phục lễ, tức phải thực hành đúng các nghi lễ dành cho một con người theo phong tục tập quán (là những quy định, thói quen của một làng, xã thời phong kiến), cụ thể là từ lời ăn tiếng nói đến đi đứng, ứng xử đã trở thành nếp nhà như là truyền thống riêng của một gia đình. Chính đó mà trong giáo dục người phụ nữ thời xưa phải có đủ công, dung, ngôn, hạnh …thì mới là phụ nữ có gia phong, biết giữ được phép nhà. Những điều như vậy đã được gia đình chọn lựa, phổ biến, truyền dạy trở thành truyền thống qua nhiều đời cha chú, nay con cháu cứ thế noi theo. Hoặc trong đi đứng gia phong thường nhắc nhở Đi đâu mà vội mà vàng, Mà vấp phải đá mà quàng phải dây. Trong ăn uống lại có Ăn coi nồi ngồi coi hướng. Trong quan hệ thì có Chọn bạn mà chơi, trong học hành thi cử lại khuyên răn Gần mực thì đen gần đèn thì sáng…
Xem đó, có thể nhìn nhận gia phong thuộc lĩnh vực văn hoá tinh thần, thể hiện đạo đức gia đình (đạo nhà). Người dân Quảng Nam luôn xem trọng gia phong, cho nên gia phong được xem là tinh thần căn bản của gia đình, các thành viên trong gia đình luôn sống theo đạo nhà, giữ gìn nền nếp gia phong từ trong ra ngoài cho thật tốt để giữ được gia thế cho gia đình. Chính đó khi răn dạy con cháu, người lớn tuổi thường nhắc nhở con nhà gia giáo hoặc con nhà gia thế, luôn ghi nhớ mới giữ đuợc gia phong.
Để giữ được gia phong, ông bà, cha mẹ, anh chị luôn là người làm gương cho con cháu, em út noi theo nhằm giữ gìn danh thơm cho gia đình, gia tộc tức phải giữ cho được gia thanh. Có được gia phong thì thế nào gia đình ấy cũng luôn có uy tín trong gia tộc và họ hàng cùng làng xóm. Đó là gia thế của gia đình để vươn lên tồn tại, xây dựng một gia đình hạnh phúc, giữ được đạo nhà.
Để thể hiện gia đình nề nếp gia phong, người xứ Quảng lấy việc học tập thành tài, giúp nước, giúp đời làm trọng và luôn phấn đấu vươn lên. Vùng Gò Nổi có tất cả 24 làng trong đó nhiều làng nổi tiếng nhưng nổi tiếng hơn có lẽ làng Bảo An, quê hương của chí sĩ Phan Thành Tài, của các nhà yêu nước Phan Thanh, Phan Bôi… của các nhà văn, nhà báo Lương Khắc Ninh, Phan Khôi, Nguyễn Bá Trác, Xuân Tâm, Nguyễn Đình…Làng nổi tiếng kinh tế, thương mại qua một số câu ca dao còn lưu truyền lại đến bây giờ:Bảo An trên bến dưới thuyền/ Góp phần phong phú một miền đồng quê. Hay là: Nông Sơn than đá thiếu chi/ Bảo An đường tốt, Trà My quế nhiều. Hoặc như: Tiếng đồn con gái Bảo An/ Khéo mua sợ nhỏ về đan mành mành.
          Trong làng có nhiều người đỗ đạt, theo thống kê chưa đầy đủ có tổng cộng 2 phó bảng, 23 cử nhân, và tương đương, 27 tú tài trong đó nhiều người nổi tiếng như phó bảng Nguyễn Duy Tự, cử nhân Phan Khắc Nhu, Nguyễn Bá Trác, Lương ngọc Trác, phó bảng Phan Trân…Phát huy nền nếp gia phong, các gia đình dòng họ tại Bảo An thời Pháp thuộc có nhiều người theo Tây học và đỗ đạt cao như Lương Khắc Ninh, Phan Thành Tài, Phan Bá Lân, Phan Thanh, Ngô Điền, Lương Thế Siêu…Trong vòng 30 năm, từ khi chuyển sang Tây học, cả làng đã có 50 người đỗ từ thành chung trở lên. Từ năm 1928, trong làng đã mở trường Tiểu học đào tạo nhân tài. Trường do thầy Phan Đắc Lộc làm hiệu trưởng, có nhiều thầy giáo giỏi giảng dạy như thầy Khương Hữu Dụng, thầy Lê Trí Viễn. Sau 1954, số học trò Bảo An tập kết ra Bắc nhiều người tiếp tục đi học, trong đó có nhiều người nổi tiếng như giáo sư toán học Hoàng Tuỵ, nhà lý luận phê bình văn học Lê Đình Kỵ, nhà ngôn ngữ học Hoàng Phê, nhà phê bình điện ảnh Lê Châu…Làng Bảo An còn là nơi sản sinh ra các nhà văn, nhà thơ, nhà báo nổi tiếng như Phan Khôi, người khởi xướng phong trào thơ mới vời bài Tình già một thời làm xôn xao văn đàn, ông cũng là người sáng lập Phụ nữ tân văn. Có Lương Khắc Ninh, chủ bút báo Nông cổ mím đàm. Các nhà thơ Xuân Tâm, nhà báo Phan Thao…Có được thành tựu như vậy không chỉ làm vẻ vang cho gia phong, giòng họ mà còn thể hiện được sự đóng góp công sức vào xây dựng quê hương đất nước, tạo nên thanh thế cho làng và cả vùng Gò Nổi từng nổi tiếng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước qua câu đúc kết dân gian: Nhứt Củ chi nhì Gò Nổi.
          Phải chăng với đặc điểm về kinh tế, văn hoá, lịch sử truyền thống hiếu học, truyền thống đấu tranh cách mạng và sự giữ gìn nền nếp gia phong trong mỗi gia đình, tộc họ, Bảo An được xem là một trong những làng quê nổi tiếng của đất Quảng.
          Trong dân gian việc coi trọng gia phong gắn liền với tục thờ cúng tổ tiên, chính đó tạo nên sự bền vững cho gia đình người Quảng nói riêng. Gia phong phát triển mạnh trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo đã được chọn lọc trong quá trình vận dụng thực hành phong tục, tập quán. Ngày nay gia phong được tiếp thu những chuẩn mực mới, tiếp nối đạo đức người xưa, phù hợp với sự phát triển xã hội, nhưng vẫn là tinh thần giữ gìn bản sắc, trọng bản, giữ nguồn cội, đề cao lòng hiếu thảo, thờ kính ông bà, cha mẹ, nhường anh nhịn em. Phát huy và xây dựng gia phong, người Quảng coi trọng việc xây dựng gia đình, sống thuỷ chung hiếu thảo, nghĩa tình…Bài vè Từ mẫu huấn tử lưu hành trong dân gian cho thấy người xứ Quảng coi trọng việc giáo dục các thành viên trong gia đình:         …
Nhớ mấy lời mẹ dặn !
Công mẹ đẻ đau mang nặng
La chi cho mỏi tiếng, hao hơi
Muốn cho lịch giác sự đời
Ngọc bất trác do hà thành khí [1]
Chữ:"Trượng phu chi chí thời thân nãi lập                                                                              thân." [2]
Hỡi! Làm người lo tảo lo tần [3]
Thời thiên hạ thường biết mày, biết mặt
Làm sao đặng rạng danh rỡ tiếng.
Lịch sự mẹ thời lịch sự con
Nghĩa quân sư con há dễ chiều lòn
Thầy há dễ tiếc công, tiếc sức
Người cũng người đạo đức
Nên tìm đến chốn ta
Gẫm người đời chữ nghĩa như ba [4]
Còn có thuở danh biêu bảng hỗ.
Lòng mẹ đà sở mộ
Nên trọng đạo sùng sư
Mẹ nói với con ngôn tận lý từ
Cho nhớ chữ:" Thời lai phong tống." [5]
                   …


[1] Ngọc bất trác do hà thành khí = Trác: mài, trao dồi. Ngọc (mà) không mài dũa (thì) sẽ không  sáng được. Người không trao dồi, rèn luyện sẽ không giỏi được.
[2] Trượng phu chi chí thời thân nãi lập thân = Nãi: bắt đầu. Kẻ trương phu có  chí bắt đầu lập thân khi  có thời cơ.
[3] Tảo, tần = Hai loại rau dùng để làm đồ tế. Trong Kinh thi có câu: Vu dĩ thái tần, nam giản vu chi tân, vu dĩ thái tảo, vu bỉ hàng lạo= hái rau tần bên bờ khe phía nam, hái rau tảo bên lạch nước. Theo ý trên, ở đây chỉ công việc lo toan, chăm chỉ của người vợ, dâu, mẹ hiền hái rau tần, rau tảo về tế tổ tiên, hiểu rộng ra là đức tính đảm đang của người phụ nữ.
[4] Ba = tức hoa. Do phạm húy vợ đầu tiên vua Minh Mạng  là Hồ Thị Hoa  (mẹ vua Thiệu Trị), sau khi sinh vua Thiệu Trị được 13 ngày, bà mất. Vua cha là Gia Long thương tiếc bèn xuống dụ cấm không được dùng "hoa" trong mọi trường hợp, do đó Thanh Hoa đọc là Thanh Hóa, Đông Hoa gọi là Đông Ba, hoa gọi là huê, bông...
[5] Thời lai phong tống = buổi lại gió đưa. Ý nói thời cơ đến rồi.

Cá mòi sông Yên cá liên Phú Túc


Võ Văn Hoè
                                               
Thời gian sau Tết nguyên đán dài đến hết tháng Năm âm lịch, trên một đoạn sông từ Cẩm Lệ (thuộc địa phận phường Hoà Thọ Đông, quận Cẩm Lệ), đến ba ra An Trạch (thuộc địa phận xã Hoà Tiến, Hoà Khương huyện Hoà Vang), cá mòi trắng từ vùng nước lợ cửa sông Hàn tìm đường về vùng nước ngọt sinh đẻ. Theo đó, nhân dân vùng dọc theo hai bên bờ sông Yên giăng lưới, cắm đăng bắt cá. Vào dịp này trên đoạn sông Yên từ Hoà Khương đến Hoà Tiến mỗi chiều chiều có năm bảy chiếc ghe nan hoặc thiếc thả lưới bắt cá mòi.
Ba ra An Trạch chắn ngang sông Yên, điều tiết nước tưới cho các cánh đồng Cẩm Toại Đông thuộc Hoà Phong, các cánh đồng xã Hoà Tiến xuống đến các cánh đồng phường Hoà Thọ Tây, Hoà Thọ Đông trong mùa khô hạn. Vùng ba ra An Trạch còn là nơi lấy nước vào Nhà máy nước Cầu Đỏ sản xuất nước sạch cung cấp cho thành phố Đà Nẵng. Từ ba ra An Trạch nhìn về hướng Đông hay ngược về Tây, có thể nhìn thấy được các rặng tre đứng nghiêng mình soi bóng xuống dòng sông, bao quanh các làng quê yên ả dọc hai bên bờ. Gió thổi dọc  ngang từ sông Yên mang hơi nước mát lành tưới tắm cho hoa trái vùng Hoà Khương, Hoà Tiến bốn mùa xanh tốt. Cây lúa cũng theo đó lên đòng ngã ngọn kịp thì. Đi trên sông nhìn hai bên bờ, những giàn mướp, giàn bí đao đứng dọc theo bãi bồi từ Bồ Bản xuống giáp Cẩm Bình hoa vàng, hoa trắng lấm tấm in trên nền xanh của những rặng tre già.
Trên một đoạn sông dài chừng mười cây số, tiết ra Giêng đến hết tháng Tư, Năm, cá mòi trắng từ cửa sông Hàn lần lượt ngược dòng nước ngọt bơi về đầu sông sinh đẻ. Chuyện về cá mòi trắng theo truyền thuyết địa phương kể rằng: vào mùa thu khi cu ngói sinh đẻ, nuôi con, biết được ngày chim con dài cánh muốn bay, cu mẹ chuyền tập bay cho con vài ba bữa, khi chim con bay được rồi, cu ngói mẹ cất cánh lên cao ngoáy nhìn nơi sinh thành lần nữa rồi đột nhiên trong tiết thu trong, rẻ một đường bay, bay về tận phía cửa sông xa, bay theo hướng những rặng tre già xuống biển. Tại đây cu ngói hoá thân, trở thành cá mòi trắng.
Sống trong vùng nước lợ đến trưởng thành, mùa xuân năm sau lại vất vả bằng đường thuỷ, lại phải rẻ nước quay về quê xưa sinh đẻ, để lại trở thành con chim cu ngói. Trên đường di chuyển ấy, cá mòi gặp biết bao trở ngại và trong số những con ngược dòng về lại ấy đã có rất nhiều con bị bắt đưa lên ghe, xếp thành chục, thành mớ vào rổ rá và trở thành hàng hoá cho các vùng quê Hoà Khương, Hoà Tiến, Hoà Phong, Hoà Thọ, Khuê Trung. Một số lớn không ra được chợ, người dân nơi đây bỏ hũ làm mắn ăn dần vào mùa mưa lụt, gọi là mắm mòi. Là kiếp cu ngói nên khi mổ cá mòi ra, ngạc nhiên thay, trong bụng có trái tim như trái tim cu ngói. Theo đó mỗi năm, chuẩn bị ghe, đăng ra sông bắt cá, người dân nơi đây thường kể cho con cháu họ biết về một loài cá “lạ lùng” có mặt trên dòng sông quê hương họ.
Đầu xuân cá mòi trắng lên đến vùng ba ra An Trạch, đây cũng là mùa sinh đẻ, các con cá đực vội vả bỏ cả cửa sông lướt theo cá mái về lại nguồn sông. Vừa ngược dòng cá cái vừa sinh đẻ. Chúng đẻ khắp một đoạn sông. Khi bơi chậm lại để sinh đẻ cũng là lúc tạo cơ hội cho các ngư dân chèo ghe, cắm đăng thả lưới bắt mồi. Cá mòi đã trở thành đặc sản một vùng quê, nhiều hộ gia đình nhân đó lấy việc đánh bắt cá mòi trên sông làm mưu kế sinh nhai nửa năm đầu để nửa năm sau vùng sông Cẩm Lệ lại vào mùa cào hến. Trên đoạn sông từ Đò Xu lên tận An Trạch, dân vạn rớ cắm Đăng, giăng lưới nganh dọc dòng sông bắt cá. Một số không thoát được lưới nên không trở thành chim ngói được. Suốt từ tháng Giêng đến tháng năm, sau mỗi lúc làm đồng về những nông dân sống dọc theo sông Yên ra sông đánh cá mòi. Thường, đầu mùa cá béo hơn, mập mạp hơn, bụng lớn do có hai buồng trứng dọc theo lườn. Cá lớn nhất bằng hai ngón tay, cỡ vừa nhỏ hơn chút, và loại ba thân mảnh nhỏ hơn, theo đó giá cũng thay đổi cho phù hợp. Để chế biến cá mòi trắng thành thực phẩm, sau khi bắt cá lên bờ, cá đầu mùa thường khoẻ do chưa sinh đẻ nên vẫn còn ngáp nước. Các bà nội trợ dùng dao xép nạo sơ một lượt lớp vảy, xong rạch chéo chữ X trên thân cá mòi vài đường, đoạn dùng xác gừng tươi, muối sống hay muối bột cũng được thoa  một lượt lên thân cá cho muối và gừng thấm vào thịt cá và đồng thời làm bớt đi chất trơn nhớt trên vảy cá, bay bớt mùi tanh. Ướp cá trong nước mắm hoặc muối ớt chừng nhai dập bã trầu, dùng que tre kẹp ngang thân cá hoặc chiếc đũa ăn cơm  bằng tre chẻ dọc thọc từ mang cá ra sau đem nướng trên lửa than. Rất thơm. Cá mòi cũng có thể ướp gừng, nghệ, ớt đem kho rim cũng ngon miệng khi ăn cơm. Hoặc cầu kỳ hơn có bà nướng sơ trên lửa xong, lại cho vào chảo chiên lên chấm nước mắm ớt cũng rất ngon miệng. Đến mùa mới có loại cá mòi và thực phẩm loại này nên đây được xem là đặc sản của sông Yên dâng tặng cho nhân dân các xã sống dọc hai bờ từ La Châu xã Hoà Khương đến đoạn chảy ngang qua Hoà Xuân, Khuê Trung giáp với Cổ Cò thuộc huyện Hoà Vang xưa.
Ngoài việc kho rim, chiên dòn, nướng chín chấm muối sống ớt xanh, các mòi còn được xay nhuyễn làm thành chả cá nữa. Để xay và ép thành chả có màu trắng bắt mắt, các bà nội trợ  chặt đuôi, bỏ đầu, lấy mang, phổi, ruột ra, xong cho vào cối đá giã nhuyển. Nay các nhà nghề chế biến có cối xay bằng điện, nhanh, tiện lợi, vệ sinh. Cá làm thành chả từng tấm tròn như cái dừng, sàng, quấn trong lá chuối, lá dong, lá chuối nước, bán tại chợ Lệ Trạch, chợ Phong Lệ, chợ Ga, chợ Cẩm Lệ. Chả cá mòi mua về đem chiên lên chấm với nước mắm ớt ăn với cơm, ngon miệng.
Ngoài ra cá mòi trắng gặp ngày đánh bắt được nhiều, tiêu thụ không hết, người dân đem mổ bụng, lấy trứng bán hoặc chế biến thành thức ăn riêng, rất ngon. Trứng cá mòi màu trắng ngà, đem nấu chín ăn rất bùi. Cá mổ xong, tách ra được phơi khô để dành vào mùa mưa lụt đem nướng khô chấm muối tiêu, muối gừng hoặc ngâm trong nước chừng nhai dập bả trầu hoặc hút xong điếu thuốc, vớt ra đem kho rim với nghệ tươi, thêm ít nước cơm [1]. Hôm nào chuẩn bị kho cá mòi, hoặc các loại cá khác cần có nước cơm các bà nội trợ mới cho thêm vào nồi gạo ít nước nữa, khi cơm sôi nếu không chắc nước ra, cơm sẽ nhão. Do vậy chỉ khi cần lấy nước cơm kho cá hoặc chắc một chén nước cơm ăn trước, khi từ đồng về đang đói, người dân nơi đây mới lấy nước cơm! Cá mòi kho như vậy ăn ngon, thơm bùi.
Người nông dân vùng sông Yên, Cẩm Lệ đến mùa thường dùng cá mòi trắng muối thành mắm, gọi là mắm mòi. Cá dùng làm mắm thường là loại nhỏ, muối cá sẽ nhanh thành mắm hơn cá lớn. Cá mòi có đặc điểm là xương rất nhỏ phân bố hàng ngang theo lườn cá nên cá lớn làm mắm lại xương, khó sử dụng. Mắm mòi có vị đặc biệt vì là cá mùa nước ngọt nên màu mắm ngã sang màu cà phê sữa đậm. Để ăn mắm mòi cho ngon miệng thường giả củ gừng tươi, ớt xanh cho vào, quậy đều, mắm rất ngon. Hoặc chế biến bằng cánh cho mắm lên kho, các con mắm chưa phân rã theo đó sẽ phân rã ra trong nước, xương cá được gợt ra riêng, đoạn phi dầu phụng chín thơm với mùi hành lại cho mắm vào, mắm sền lên trông thật ngon. Mắm như thế vào mùa tiểu mãn, mùa mưa lụt chấm với bánh xèo, bánh bèo…cũng ngon.
Cá mòi không chỉ dùng làm thức ăn riêng từng món mà đôi khi được dùng nấu cháo cá mòi. Sau khi nấu nồi cháo chín xong, các bà nội trợ luộc cá vừa chín, đoạn dùng đũa giẻ cá lấy xương ra, phần thịt và trứng cá cho vào nồi cháo. Rất thơm ngon, có mùi vị riêng. Cháo gia vị thêm ngò, hành, tiêu tạo nên một hương vị đặc trưng của cháo cá mòi vùng quê các xã Sông Yên. Cháo cá mòi thường ăn nóng, cứ xì xà xì xụp, vừa thổi vừa ăn. Ăn giữa bữa, giữa buổi hoặc ăn uống nước vào những lúc đan nong, nia, chằm nón, dệt chiếu, đóng cối xay…ngay tại nhà cũng là cách tìm gặp thú vị riêng. Cách chế biến như vậy cũng là đặc sản cá mòi Sông Yên Hoà Vang.
Ngoài ra, cá mòi sông Yên còn dùng chế biến thành các loại món ăn như dùng làm nhưn mì Quảng, dùng gói ram cá mòi, gỏi, hoặc dùng hấp cá chín với các loại gia vị ăn cũng ngon.

Cá liên Phú Túc

Cá liên sinh sống và đẻ trứng nhiều ở nguồn Lỗ Đông, nơi có ghềnh thác nhỏ, cá sinh sống càng đông, nhất là sau mùa lũ lụt, cá bơi theo dòng tìm xuống những nơi có rong, meo để tìm mồi. Đoạn sông từ xã Hoà Bắc, xuống An Lợi xã Hoà Ninh đến thôn Phú Túc thuộc xã Hoà Phú, cá liên sinh sống nhiều. Sau những ngày mưa lũ, độ tháng 10, 11 cá phát triển nhanh chóng, chúng tập trung sinh sống tại những kẽ đá, nơi có sức chảy mạnh, các lại càng thích. Cá còn sống dọc đến đoạn sông Tuý Loan thuộc xã Hoà Phong, thảng người ta cũng bắt gặp giống cá này.
Đến Hoà Phú hỏi loại cá liên thì không ai không biết, bởi đây là một đặc sản vùng trung du huyện Hoà Vang, là sản phẩm thổ nghi thích hợp với môi trường và là nguồn thực phẩm quanh năm, nhiều nhất vẫn là tiết tháng 10 của người dân Hoà Phú. Cá liên Hoà Phú cùng với cá mòi trên sông Yên tập trung vùng nước chảy mạnh tại ba ra An Trạch thuộc xã Hoà Tiến tạo nên câu tục ngữ Cá mòi sông Yên, Cá liên Phú Túc gắn liền với đất đai sông núi một vùng cư trú, là sự đúc kết kinh nghiệm thăng trầm qua bao đời của nhân dân nơi đây mới có được.
Cá liên ít có dịp xuống dưới đoạn sông Cầu Giăng, bởi trên đoạn sông này, do người dân nơi đây khai thác lấy cát phục vụ xây dựng nên dòng sông luôn bị khuấy động và nước đục, không thích hợp cho môi trường cá liên sinh sống. Trên một đoạn sông dài như vậy, cá liên trú ngụ, sinh sống quanh năm luồn lách xuôi ngược trên dòng sông nhiều nhất là đoạn An Lợi từ phía Hoà Ninh đổ sang Hoà Phú. Tại Hoà Phú, thôn Phú Túc có loại cá này nhiểu hơn do độ dốc của các khe suối cao nên nước chảy mạnh, phù hợp với tập quán sinh sống của cá. Cá không lớn lắm, chừng một ngón tay, bơi khoẻ, luồn lách theo kiểu cá sông cá đồng, lại thường bơi ngược nước nên khoẻ và nhanh nhẹn. Cá liên sinh đẻ thuận lợi nhất vào mùa nước sau lũ lụt, dòng chảy không gấp nhưng nước đã bớt đục trong khoảng tháng Mười, tháng Mười một. Mùa sau lũ thường meo, rong reo mọc trên các vách, mõm đá, cá tập trung tìm đến, bơi ngang, ngược giữa dòng ăn meo, rong. Do sống trong vùng ghềnh nuớc chảy mạnh nên cá luôn khoẻ để thích nghi. Tháng Giêng, Hai mùa cá bắt đầu sinh đẻ. Vào mùa này người dân Phú Túc xã Hoà Phú, An Lợi xã Hoà Ninh, hoặc trên nguồn Hoà Bắc xuống đến Tuý Loan xã Hoà Phong có thể giăng lưới đánh bắt được nhiều cá. Cá đánh bắt nhiều dùng không kịp trong các gia đình, họ thường mổ bụng phơi khô chờ sang mùa mưa lụt mang ra dùng, thay cho đi chợ hàng tuần.
Chế biến cá liên không khó, không cầu kỳ gia vị như các loại cá khác. Do điều kiện sinh hoạt miền trung du nên cá liên đánh bắt được rất ít dịp trở thành hàng hoá buôn bán tại chợ. Do đó, ít gặp cá liên theo chân các bà nội trợ được mang xuống bày bán tại chợ Tuý Loan hoặc xa hơn tại chợ Ga, chợ Cẩm Lệ hay ngược về phía chợ Tổng tại An Ngãi. Người dân Hoà Phú, Hoà Bắc, Hoà Ninh, sinh sống dọc theo đoạn sông An Lợi, xuống đến Tuý Loan, đánh bắt được phân phối cá liên theo phương thức tự cung tự cấp, cho nên chế biến cá đơn giản để ăn với cơm theo cách của người dân miền trung du: đơn giản, kiệm ướt. Cá liên có thể đem phơi khô, vào mùa mưa lại mang ra nướng chín chấm với nước mắm ớt đỏ hoặc chấm với muối tiêu đều được, ăn với loại gạo sản xuất tại các chân ruộng cao hoặc lúa nương rẫy của đồng bào Cơ tu thì rất ngon miệng. Bụng đói có thể ăn no, không ngán. Hoặc cá liên đem kho rim với muối, nước mắm cũng ngon miệng. Trong trã kho rim cá liên, nghệ được cho là thành phần không thiếu. Nghệ tươi thì ngon hơn, được giã dập cho vào trã kho lên, nêm thêm một ít kẹo kho cá, lá gừng xắt nhỏ, cho lửa rim đến khi nước cá cạn, cá chín là được. Nếu để cho cá có chút nước sệt, lại nấu cơm lấy nước cơm đổ vào trã cũng ngon. Hoặc các liên có thể chế biến thành loại cá chiên cũng rất thơm giòn. Khi kho, chiên, hoặc nướng cá, người ta mổ một bên bụng cá lấy hết ruột cá ra. Ruột cá liên nếu không lấy ra khi kho, chiên có thể gặp vị đăng đắng nơi miệng nhưng lại ngon nhất. Tuy nhiên đấy là đặc trưng riêng của các loài cá sống trên các dòng sông.
Cá liên là đặc sản miền trung du Hoà vang, cá cùng với một loại rau trên vùng  rừng Hoà Phú tạo cho vùng đất trung du này một câu tục ngữ rất quen, vừa biểu hiện tính chất của vùng đồng bằng lại vừa biểu hiện của vùng núi miền tây huyện Hoà Vang. Bởi loại rau này chỉ phát triển và sinh sống phù hợp trên các cánh rừng. Đó là Rau dớn cá liên. Rau dớn phát triển nhanh vào tiết mưa dông đầu tháng Ba trên các cánh rừng Hoà Phú. Sau các cơn dông, nhiệt độ trong núi bảo hoà cho được độ ẩm thích hợp nên rau dớn phát triển nhanh trên các miếng đất trống trong núi, rừng thấp hoặc trên vùng đồi như tô úp của miền trung du huyện Hoà Vang. Không chỉ Hoà Phú có nhiều rau dớn sinh sống mà cả vùng trung du Sơn, Ninh, Liên, Bắc rau dớn sinh sống tự nhiên rất nhiều. Rau dớn xanh non, thân dây nhỏ như cây tăm hương. Đến mùa, rau lên tươi tốt, bứt rau về nhà lặt sạch sẽ, rửa kỹ, đoạn mang đi luộc chín chấm với mắm cái, mắm ớt vẫn ngon. Rau dớn được làm thực phẩm ăn với cơm. Rau luộc chín nhưng vẫn rất dòn, thân dây nhỏ hơn con bún, trông lạ mắt. Rau dớn xào, trộn, luộc hoặc đem nấu canh với cá liên cũng là một món ăn thường ngày của người dân An Lợi, Hoà Trung, Phú Túc, Hoà Phú.


[1] Nước cơm: là loại nước nấu cơm sau khi cơm sôi sền sệt, chắc lấy nước trước khi vần cơm xuống than. Nước như thế dân gian vùng Hoà Vang gọi là nước cơm.

Võ  Văn  Hòe
Do cái vần lưng?                                         
Tại sao trong các loại thể thơ: lục bát, Đường luật, tự do, song thất lục bát…thì thể loại thơ Đường lại nhanh chóng vắng mặt trên văn đàn nhanh như vậy mà ca dao lục bát lại sống lâu dài và thường xuyên xuất hiện trên văn đàn, cả khi những nhà thơ không chuyên hoặc những nghệ nhân dân gian trong làng xã vẫn thường sử dụng thể loại này như một công cụ truyền đạt thông tin trong những buổi hát huê tình, hò khoan đối đáp ?  
          Từ vấn đề trên có thể nhìn thấy rằng ca dao lục bát xứ Quảng đã có thể tồn tại và đi theo cùng sự phát triển lịch sử - văn hóa một vùng đất như hiện nay là nhờ vào việc vươn ra, mạnh dạn bứt phá quy ước cũ. Một số nhà chuyên môn tìm hiểu ca dao đất Quảng cho rằng đấy là biểu hiện của sự phóng khoáng trong cách tư duy phản ánh hiện thực của người dân vùng đất này. Chính đó mà ca dao lục bát và cả khi có nhiều câu ca dao có biến thể vẫn được mệnh danh là thơ ca dân tộc, là thể loại mà bất cứ giai đoạn lịch sử văn học nào cũng thường xuyên và đôi khi cần phải sử dụng để truyền đạt thông tin đến với mọi người. Thơ lục bát/ca dao cho dù được mệnh danh như vậy nhưng không phải là chuyện đương nhiên phải vậy, trái lại phải nghĩ rằng do đâu mà thể loại thơ lục bát có khả năng đi cùng và tồn tại lâu dài với lịch sử - văn hóa dân tộc từ xưa đến nay. Cũng phải ghi nhận rằng thơ Đường luật (nhiều loại) đã một thời làm nên sóng gió trên văn đàn bởi tính hàn lâm bác học, còn bởi tính khái quát cao của thể loại mang đến và còn bởi cách gieo vần, đặt chữ của thể loại đã cho phép tạo nên những vần thơ có khả năng thể hiện tính tĩnh, “sang trọng” của loại thể và đồng thời nhiều nhà thơ đã tung hoành ngọn bút của mình một thời và dĩ nhiên đã làm lay động không chỉ trong giới văn nghệ sỹ mà còn thấm sâu đến các tầng lớp bạn đọc. Có điều dễ nhìn thấy là trải qua mấy thế kỷ, thể loại thơ Đường với thể thức thực hiện của nó có lẽ đã tự thỏa mãn với cách gieo vần luân phiên bằng - trắc mà không nghĩ đến sự cách tân hình thức luân phiên ấy. Do đó, thể loại đã không tự hóa thân để đi theo cùng thời đại được mà “nửa đường” phải nhường bước cho các thể loại thơ anh em khác vươn lên thể hiện khả năng biểu đạt của mình, bấy giờ thơ Đường giữ vai trò lịch sử của mình. Lẽ ra trong mỗi giai đoạn tiến hóa của lịch sử - văn hóa, bản thân thể loại luật Đường phải tự đổi mới, tự thân vận động để tiến lên giữ vai trò tích cực trên văn đàn, phù hợp với sự phát triển của hiện thực thì tiếc thay thể loại dù cựa quậy đến mấy cũng không thể thoát ra được luật bằng - trắc đã quy định sẵn. Nhà thơ nào muốn thành công thành danh phải vận dụng đúng phép luật thơ, nếu không không là nhà thơ nữa. Xem trong văn học trung, cận đại Việt Nam sẽ rõ điều này.
          Lẽ ra bản thân thể loại thơ Đường phải tự cách tân bằng cách nào đó tùy thuộc vào sự phản ánh hiện thực khách quan, nhưng chắc chắn phải phá vỡ tiết tấu ngôn ngữ, luân chuyển các biểu tượng biểu hiện và đặc biệt phải biết “dịch chuyển thanh và vần điệu” sao cho phù hợp với tâm lý người đọc vào mỗi thời kỳ phát triển. Nói cách khác là thay đổi cách biểu đạt và cách chứa đựng nội dung sao cho thích nghi được và đồng thời đáp ứng điều mà người đọc mong muốn tìm thấy trong những vần thơ với đầy đủ các yếu tố “thất tình” của con người một cách sinh động, chi tiết và cụ thể nhất. Thơ  Đường không vượt qua hình thức thay đổi cách biểu hiện và không thể miêu tả chi tiết cái mà con người đương đại trông mong nên khi điểm danh đã thấy trống vắng trên văn đàn đương đại mà một thời thể loại này từng gây sóng gió trong thi ca.
          Khảo sát câu ca dao lục bát, điều có thể nhìn thấy rõ rằng để tồn tại cùng với quá trình phát triển lịch sử - văn hóa dân tộc, vùng miền, ca dao luôn có sự biến đổi, thích nghi, đôi khi biến động để đi cùng năm tháng, nếu không cũng sẽ mất vai trò và bị giữ lại để trở thành “người đưa đường” trong văn đàn thi ca vùng miền. Để biến hóa, câu thơ lục bát/ca dao tự dung nạp, hay cần phải tạo ra yếu tố ngôn ngữ dư (phá luật), đặc biệt tạo ra khả năng lựa chọn ngôn ngữ để biểu đạt mà không (đôi khi) phải giữ lại luật, thể hiện ở vần lưng - một cái vần khó chịu trong thơ lục bát. Để hiệp vần với câu lục, đến lượt câu bát không thể sử dụng phương thức kết hợp ngôn ngữ mà phải thực hiện thao tác lựa chọn. Chính đó, ca dao đất Quảng đôi khi phải tự phá vỡ niêm luật để “đi theo” và đồng thời tạo nên sự hy sinh về luật để đạt được khía cạnh biểu đạt, cái có thể biểu đạt khi cuộc sống người Quảng đang dập dồn lao nhanh về phía trước, câu ca dao theo đó phải thích ứng, phải tự cắt bỏ bớt niêm luật (khi cần thiết). Chính vì có khả năng dịch chuyển thanh, vần tại cái vần lưng khó chịu kia mà câu ca dao người Quảng thể hiện được tính hiện thực, cái cần hiện thực cụ thể để văn đàn đưa tay thường xuyên tiếp nhận “đi cùng năm tháng” với quần chúng nhân dân trong quá trình phát triển văn hóa - lịch sử của mình.
                    - Tay anh cầm cần câu trắc, ống câu trúc
                                                lưỡi câu thau
                    Muốn câu con cá biển chớ con cá bàu thiếu chi.
          Hoặc:
                   -Tai nghe trống chiến, trống chầu
                   Xếp ba miếng đậu phụng, lộn đầu lộn đuôi.

                  
                                     
          Theo đó, có thể thấy theo từng giai đoạn phát triển văn học, ca dao lục bát đất Quảng chung sống cùng văn hóa bản địa luôn “biết người biết ta”, biến hóa tài tình, khi yếu tố dư xuất hiện, lúc cần cũng có thể dịch chuyển vần lưng để đạt nguyện vọng biểu đạt cái cụ thể, hiện thực khách quan và đồng thời phục vụ kịp thời tâm lý người dân trên vùng đất chưa mưa đà thấm được hài lòng, toại nguyện.
 - Ai kia mười lăm năm lỡ biết bao lần,
Chứ em đây mười lăm năm mới lỡ chỉ một lần.
Nhưng rứa mà không lỡ,
Để làm gương cho khách hồng trần thử xem.

- Ai người ham chuộng giàu sang
Còn tôi cuộc sống có cơm đủ rồi
Đói cơm, áo rách sá gì
Miễn sao lý tưởng cao sang cho người.
          Và từ đó, ca dao lục bát đất Quảng luôn tìm được cách thể hiện riêng không chỉ làm hài lòng con người nơi đây mà còn giữ được cho mình một khả năng biểu đạt không bao giờ bị sử dụng đến cạn kiệt khả năng thích ứng để có thể sẽ phải lặp lại chính bản thân câu thơ lục bát hoặc do bị “cạn” nên dễ rơi vào vùng lõm của văn đàn, tức thì có nguy cơ bị bỏ quên ngay trên mảnh đất ca dao dân ca đất Quảng. Chính chỗ đó, cho thấy rằng ca dao lục bát ra đời tại vùng đất chưa mưa đà thấm đôi khi biến tấu thành những câu dài ngắn khác nhau không tuân thủ niêm luật lục bát như bản thân lục bát vậy mà vẫn phục vụ được bao người, vẫn thấy hài lòng, vẫn có cái nhìn bao dung khi thể loại cựa quậy vươn ra ngoài niêm luật.
- Ba đời bảy họ nhà khoai
Dù ngọt dù bùi cũng thể lăn tăn.

- Bớ cô gánh nước trồng cây
Tôi xin một miếng tưới dây tơ hồng
Dây tơ hồng không trồng mà mọc
Gái chưa chồng tôi chọc tôi chơi [1].

- Cao bờ thì tát gàu giai
Gàu sòng chỉ tát được nơi thấp bờ.

- Cây xanh thì lá cũng xanh
Anh giỏi trồng lúa, em rành trồng bông
Mai ngày lúa chín đầy đồng
Bông nở trắng đồng, thi thử ai hơn [2]
Khi ca dao cần sự thể hiện chi tiết tâm tư, nguyện vọng mà nhất là biểu đạt tâm trạng thương yêu, hờn giận trong tình yêu đôi lứa, hoặc mối quan hệ xã hội đan xen nhiều chiều, lục bát có thể mở rộng vòng tay, khoan dung biến thể ngay trong cấu trúc để làm hài lòng những nghệ nhân dân gian đang cần một thể loại nới rộng câu chữ, niêm luật, vần điệu để ứng xử ngay khi cần thiết mà không phải chọn lựa niêm luật, vần… nào cả. Câu thơ lục bát do đó có thể kéo dài câu chữ ra để đáp ứng nhu cầu sử dụng bằng cách luân phiên thay đổi biểu tượng biểu hiện, ngôn ngữ, âm thanh, vần và tính hiện sinh của cuộc sống là có thể phản ánh cái rất cụ thể, khi cần. Cái mà bất kỳ người đọc nào cũng cảm nhận được theo cách riêng của họ mà không cần phải thuyết minh ngay trong câu chữ dược dùng. Và thế là ca dao đất Quảng đã mượn lục bát để làm được công việc rất cụ thể là thể hiện tâm trạng con người trong những hoàn cảnh khác nhau, dưới nhiều giác độ khác nhau.


[1] Có bản ghi: Bớ cô gánh nước giếng mây – Cho tôi một miếng tưới cây ngô đồng – Cây ngô đồng không trồng mà mọc – Cô mô chưa chồng tôi chọc tôi chơi.
[2] Có dị bản: Em giỏi cấy lúa, anh rành trồng bông Bông nở trắng vồng thi thử ai hơn.

Võ  Văn  Hòe

VĂN HÓA PHƯỚC THUẬN                                             

1. Các thiết chế văn hoá làng
Xưa kia cùng với quá trình tụ cư và sinh sống, bước đầu người dân Phước Sơn đại xã (nay là thôn Phước Thuận, xã Hoà Nhơn, huyện Hoà Vang), thiết lập các thiết chế văn hoá nhằm có nơi sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu tâm linh cho dân làng nhưng đồng thời cũng để bảo lưu, giữ gìn những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của Phước Sơn. Theo đó, đã phản ánh đời sống tinh thần của người dân nơi đây rất phong phú. Các thiết chế gồm chùa làng, đình làng, miễu xóm, các miễu thờ Thái Giám, Cao Các, lăng Âm linh và các nhà thờ của các chư phái tộc.
Thế nhưng do tác động bởi chiến tranh nên các di tích tại Phước Sơn từ xưa đến nay cả một vùng Ngũ xã đều không còn nguyên vẹn. Hiện chỉ còn các kiến trúc cổ như đình làng Thạch Nham, Phước Thuận, Phú Hoà, trong đó đình làng Phước Thuận được Uỷ ban nhân dân thành phố cấp bằng công nhận di tích Lịch sử - Văn hoá cấp tỉnh thành.
Đình làng:  Đình Phước Thuận là ngôi đình cổ, ban đầu toạ lạc tại Cồn Am (cạnh Cồn Nồ), xứ Bàu Dài, tục gọi là Minh Đình (nay là xóm trên).Thời gian đầu mới dựng, đình làm bằng tranh tre, gỗ tạp để di dân trú ngụ có nơi sinh hoạt chung, nơi tập trung đồng tâm chống lại thú dữ, là địa điểm trú phòng khi mưa nắng, lụt bão, coi ngó sơn phỉ.
Thời Hồng Đức (thời Lê Thánh Tông – không rõ năm) đình làng Phước Sơn dời đổi về xứ Cây Trôi thuộc khu vực đất làng. Đến đời Gia Long, đình làng được xây cất lại gạch ngói, sườn đình làm bằng gỗ tại địa phương. Gạch ngói được lấy đất từ ruộng Hồ Lư tại xóm trên để nung, nay còn dấu tích. Viên gạch lớn, hình chữ nhật giống gạch người Chăm. Đây là thời kỳ Phước Sơn đại xã chưa bị chia cắt, do đó nhân dân trong làng đông đúc, các ngày tế lễ kỳ an, kỳ phước người dân được ăn xôi, cháo, thịt cũng là đặc sản tại Phước Sơn. Đến dự tế lễ xuân thu nhị kỳ tại đình, người dân trong làng thường mang theo chén đũa cho tiện, nhằm kết thúc lễ hội là có thể dọn dẹp gọn gàng trong ngày mà không phải thức đến thâu đêm.
Đình Phước Thuận là một ngôi đình lớn, trong dân gian còn lưu truyền “Đi vô xem đình La Qua, đi ra trông đình Phước Thuận”. Đến nay làng Phước Thuận còn lưu giữ được bộ đinh, bộ điền thời Thái Đức – Gia Long (có ấn chỉ niên hiệu Thái Đức), và bảng Khoán ước thời Gia Long nay còn lưu giữ được, cho thấy tại Phước Thuận, một làng quê trung du của huyện Hoà vang vẫn còn những văn bản Hán – Nôm, chứng tỏ thời kỳ Phước Sơn đại xã, nơi đây đã từng thiết lập được một nền nếp sinh hoạt văn hoá trong nhân dân mà nay còn được lưu truyền trong dân gian.
Đến năm Tự Đức thứ III (1849) đình làng được gia cố đổi từ gỗ lim, gỗ muồn sang gỗ mít, kiền kiền. Hiện nay giàn gỗ vẫn còn nguyên vẹn. Trên một cây xà có khắc: Tiền triều lịch đợi, giáp thìn niên, bổn xã hội tề cải thiên đình, toạ cấn hướng khôn trạch đắc, bát nguyệt, cửư nhật, thìn thời khắc, thượng lương [1]
Sau hiệp định Giơ ne vơ năm 1954, đình làng Phước Thuận đã bị máy bay của Pháp đánh phá gây sụp đổ. Nay cây cột cái của đình còn mang dấu đạn. Nhân dân làng Phước Thuận vận động quyên góp trùng tu, tôn tạo, giữ nguyên kiến trúc xưa.
Năm 1998, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, được sự cho phép của chính quyền địa phương xã Hoà Nhơn, nhân dân chung sức cùng với kẻ xa quê hương, người bám trụ với sự hỗ trợ của các công ty xí nghiệp đóng trên địa bàn thôn đã đóng góp tiền của tu sửa, chỉnh trang để có được ngôi đình như hiện nay.
Thời gian đầu xây dựng nên ngôi đình, mục đích dùng làm nơi trú ngụ nắng mưa cho nhân dân đi khai hoang phục hoá mở mang bờ cõi có nơi nương tựa, sinh hoạt, đình được gọi là Minh Đình, dần về sau gọi là Thống Hội Đường, biến thành nơi thờ thần Thành hoàng bổn xứ bảo an chính trực, thờ các vị Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cư của làng. Từ đó về sau các lễ hội kỳ yên, kỳ phước của làng được tiến hành tại đình.
Trong đình, gian hậu tẩm có các câu đối: -Thần linh bảo hộ nhơn dân thịnh,Thánh đức phò trì bá tánh hưng.Hai bên tả hữu đình thờ Tiên khai, Hậu vũ tức thờ Tiền hiền, Hậu hiền của làng, có câu:-Phước Thuận khai nguyên tiên Ngũ xã,Đà Châu nhậm hoán hậu Trần, Lê.[2] Hàng cột cái trước có:-Tiền đình hoa khai Phước thuỷ long phi trợ,Hậu tẩm hoá văn Thuận địa hổ lai phò. Bức bình phong có câu đối:-Giang sơn thiên cổ tú, Phong cảnh tứ thời xuân.Trụ biểu có 2 câu đối:- Phước khai thái vận hậu thế miên trường danh kế thạnh,Thuận vũ phong điều thuần nông tục mỹ bách tánh hưng.- Hoà hợp tiền nhân khẩn thổ khai nguyên lưu hậu thế,Nhơn cơ đức hậu an cư lạc nghiệp niệm thâm ân.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình Phước Thuận còn là nơi tụ họp thanh niên và nhân dân tổng Phước Tường, các làng phụ cận đến luyện võ nghệ dưới sự chỉ huy của Thủ lĩnh xã đoàn, chờ thời cơ tổng khởi nghĩa. Tại đình, nhân dân nghe ông Trần Định đọc lệnh khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945. Đình Phước Thuận còn là nơi lý trưởng Ngũ xã nộp ấn triện cho chính quyền cách mạng.
Thời kỳ 1908 nổ ra phong trào kháng thuế tại Trung kỳ, các ông Trưởng Nghệ, Bồi Lộc luyện võ nghệ tại đình, đánh Pháp, xuống đường xin xâu kháng thuế dưới sự lãnh đạo của Ông Ích Đường.
Những năm 1950 – 1954 đình Phước Thuận đón nhận đồng bào di cư từ các làng lân cận không chịu nổi sự khủng bố của giặc Pháp như làng Phú Hoà, Thạch Nham, Phước Thái, Đông Lại, Nghi An, Đông Phước… trốn địch dựa vào núi non rậm rạp của làng Phước Thuận để ẩn mình. Đình còn là nơi để cán bộ cách mạng dừng chân trong trận đánh Pháp năm 1952 tại Thạch Nham, trận phục kích đoàn xe của Pháp tại Truông Tranh,  Cẩm Bình năm 1954.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đất nhị Phước: Phước Hậu, Phước Thuận là căn cứ địa cách mạng, nơi cung cấp thông tin liên lạc, lương thực, thuốc men cho bộ đội tại cấm Ông Dụng. Chính đó, giặc Mỹ bắn phá đình làm hư hại, sụt móng. Từ sau 1975, trong hoà bình xây dựng, đình làng Phước Thuận là nơi làm kho giữ lúa của hợp tác xã số 2 Hoà Nhơn và là nơi làm việc của đội sản xuất số 10.
Ngoài đình làng còn có Chùa làng, Miễu Tam vị, Miễu bổn xứ, Miễu Thái giám, Dinh Bà, Lăng Âm linh, Nhà thờ các chư phái tộc.
2. Khoán ước làng Phước Sơn
Tại làng Phước Sơn nay là thôn Phước Thuận, xã Hoà Nhơn, huyện Hoà Vang còn lưu giữ lại bản khoán ước của làng, lập vào thời Gia Long thứ 7 (1808). Bản khoán ước được viết bằng chữ Hán trên giấy dó, kích thước 20 x 30 cm. Về nội dung gồm 10 quy định về việc cúng tế ở đình làng, về mừng thọ lên lão, về cưới hỏi lấy vợ, lấy chồng của trai gái trong làng, về sự tương thân tương ái, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, về khuyên răn làm những điều tốt, không trộm cắp, không phá của cải, tài sản chung của làng…
            Mở đầu khoán ước ghi: “Chúng tôi là những viên chức lớn nhỏ trong xã, thuộc xã Phước Sơn, tổng Phước Tường thượng, huyện Hoà Vang, phủ Điện Bàn. Nay lập đồng ưng định cử ông cựu cai tên Đàm lên làm chức trùm cả để chăm sóc các việc trong đình, chùa, sắp đặt lễ cúng và cứ theo khoán lệ khu xử những việc đúng sai trong xã, giữ gìn bờ cõi thuộc địa phận của xã. Từ nay những nam phụ, lão ấu trong xã và những người ngụ cư, nhóm họp tại đình, tưởng niệm các bậc tiền hiền đều phải giữ đúng phép tắc hợp với thuần phong, trên thuận dưới hoà, để giữ lấy danh dự với các làng lân cận. Từ nay về sau con cháu trong làng đều phải tuân theo những điều mà trước đã vạch sẵn”. Và, bản khoán ước cũng chỉ rõ việc xử phạt khi các thành viên trong làng không chấp hành: “Những viên chức nào trong xã không dựa theo lệ khoán của các bậc tiền hiền mà làm trái lại những điều đã định ước trong tờ ưng định này lại có những lời phán ngôn ngang bướng thì phải chịu phát vạ một heo và cả trầu rượu dùng đủ, để làm sáng rõ nghi tắc của các bậc tiền hiền, để nêu gương cho những lớp trẻ sau này, ngõ hầu giữ được sự phát triển của làng”.

        Ngay từ lời mở đầu bản khoán ước đã ghi rõ trách nhiệm của con cháu – các thành viên trong làng phải biết gìn giữ lễ nghi, phép tắc, thuần phong mỹ tục của làng mà các bậc tiền hiền khi đến khai canh, khai cư lập làng đã đề ra và một khi ai đó không chấp hành, không thực hiện đúng thì sẽ phải chịu phạt trước dân làng. Trong 10 điều khoán ước có những điều ghi về tinh thần tương thân, tương ái như: “Dựa theo khoán lệ của tiền nhân thì trên đời này có kẻ giàu, người nghèo không giống nhau, nên phải giúp nhau mới phải”, hay: “Dựa theo lệ định của tiền nhân, trong làng có người quá cố mà con cháu trong nhà muốn tỏ lòng hiếu thảo, hoặc có lễ tạ khi tống táng xong, việc ấy tuỳ theo khả năng của gia chủ, bất luận ít nhiều. Khi có đám tang gia chủ phải trình xã trưởng để cắt người trợ táng hoặc trợ tế”.  Bản khoán cũng nói về việc gìn giữ, cấm phá tài sản chung của làng như: “Dựa theo phép tắc của quan trên, măng tre mới nhú lên cần phải được bảo vệ, để dùng vào những việc có ích sau này. Điều này đã có giấy tờ cấm ngặt từ trước, nghĩa là cấm không được cắt măng tre. Nếu ai còn phạm vào điều cấm ấy, cắt trộm măng tre khi bị bắt phải nộp lệ khoán một quan, một tiền và thu thêm 5 tiền để thưởng cho người bị bắt được”. Tuy nhiên, bản khoán ước cũng có mặt hạn chế như “Người con gái phải đúng 14 tuổi trở lên mới được gả chồng” và phải “giữ đúng 6 lễ từ vấn danh đến lễ cưới”, tuổi lấy chồng của người con gái quy định như vậy còn quá sớm. Hiện nay, theo Luật Hôn nhân và Gia đình chỉ rõ là nữ phải đủ 18 tuổi trở lên thì mới lập gia đình.

     Bản khoán ước này được lập vào ngày 4 tháng 9 năm Gia Long thứ 7 (1808) 1.

         Như vậy, khoán ước cũng như hương ước có vai trò quan trọng đối với việc ổn định, xây dựng cuộc sống trong làng Phước Thuận, theo đó, chấp hành tốt sẽ làm cho làng xóm yên vui, mọi người dân trong làng đoàn kết, trên thuận dưới hoà. Có được điều đó có thể một phần do các hình thức phạt và hình thức khen thưởng mà khoán ước hay hương ước đã nêu ra. Qua đó, chúng ta thấy khoán ước đã phản ảnh các quy tắc ở làng xã mà mọi thành viên trong cộng đồng buộc phải tuân theo; đồng thời phản ánh một phương diện quan trọng của văn hoá làng, đó là những quan niệm về điều hay, lẽ phải của dân làng, đưa họ vào khuôn phép và thực hiện những điều đã quy ước. Do vậy, có thể nói khoán ước là một khế ước tự nguyện của toàn thể dân làng Phước Thuận, gắn bó dân làng với nhau, điều tiết các trách nhiệm cũng như quyền lợi của mọi thành viên trong làng. Khoán ước đã bổ sung cho luật pháp khi cần xử lý những vấn đề cụ thể luôn nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Vì vậy, mặc dù cách chúng ta ngày nay gần 200 năm, nhưng bản khoán ước của làng Phước Sơn đại xã vẫn còn nhiều ý nghĩa và giá trị trong việc xây dựng làng văn hoá hiện nay. Chúng ta cần tiếp thu và phát huy cách ứng xử mang đầy tính nhân văn và tự nguyện của các thành viên trong làng xã ngày trước, để cùng nhau quy ước rồi thực hiện, nhằm làm cho từng thôn, làng, từng tổ dân phố, khu dân cư được an vui, yên ổn, môi trường xanh - sạch - đẹp và phát triển. Có thể từ môi trường văn hoá làng xóm ấy, Huê tình ca được tập hợp từ những lần sinh hoạt văn nghệ, diễn xướng dân gian mà có chăng? Ngày nay, chúng ta có thể hiểu được, trước ta đã có người làm công việc lưu giữ vốn văn nghệ dân gian này rất tích cực và hiệu quả. Hiệu quả không chỉ bằng trí nhớ mà còn ghi lại bằng văn bản, đã mấy chục năm hoặc lâu hơn như bản khoán ước Phước Sơn đại xã được thiết lập cách ta trên 200 năm vẫn có thể sưu tầm và xử lý được. Từ hôm nay nhìn về quá khứ, đó cũng là cách bảo tồn, tàng trữ di sản văn hoá địa phương, mong ở đấy sẽ phát huy được tinh hoa văn hoá dân gian với tinh thần “ôn cố tri tân”, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Hiện nay trong cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” quy ước cộng đồng đã trở thành một trong những nội dung quan trọng và chủ yếu trong công tác xây dựng thôn, bản, làng văn hoá, tổ dân phố văn hoá…Nội dung của quy ước cộng đồng dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy những thuần phong mỹ tục của cha ông qua hương ước, khoán ước. Nhưng chỉ với những quy ước mang tính tích cực, còn những quy ước lạc hậu thì chúng ta cần loại bỏ, làm sao cho mỗi gia đình, mỗi tộc họ hiểu biết và gìn giữ những thuần phong, mỹ tục tốt, góp phần làm cho người dân có ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Đồng thời giáo dục cho thanh thiếu niên, con cháu trong gia đình, dòng tộc chăm lo làm ăn, cố gắng học tập, không đua đòi hư hỏng, không rơi vào các tệ nạn xã hội…nhằm đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc, nếp sống  có văn hoá, văn minh ở các làng quê, khu phố được phát huy, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng thành phố văn minh, giàu đẹp.
3. Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Trong lao động sản xuất, đặc biệt trên vùng trung du âm âm gió núi, mưa chiều như làng Phước Thuận thì hẳn sinh hoạt văn nghệ phải được tổ chức để có chỗ cho thanh niên nam nữ và nhân dân nói chung sau những buổi lao động mệt nhọc ngoài đồng, trên núi có nơi sinh hoạt, tạo không khí sôi động mà quên đi những mệt nhọc trong lao động hằng ngày. Xuất hiện những câu ca dao tục ngữ từ vùng trung du này thường gắn với địa danh, mang hơi thở của tâm lý về đặt tên đất, tên làng – những địa danh được đặt tên khi “từ Bắc nhi nam lai” khai khẩn. Ấy vậy nên địa danh đất đai sông suối đã đi vào những câu ca dao, tục ngữ được truyền tụng tại Phước Sơn đại xã từ ngày lập làng còn lại đến giờ.
Tục ngữ: Mống chuồn đóng tại Gò Chòi [3], Mấy cô con gái đi coi mống chuồn. Qua đấy, cho thấy rằng dân gian vận dụng cách nói lái  trong tiếng Việt khi nhìn thấy quan quân qua lại trên Gò Chòi, thanh niên trong làng trào lộng cho vui với các cô con gái. Cô nào “muốn chồng” lên trên ấy mà chọn. Giống như câu: “Trai khôn tìm vợ chợ đông,  Gái khôn tìn chồng giữa chốn ba quân cũng là cách sinh hoạt văn nghệ dân gian nơi quê kiểng. Mống Cửa Đại cá mại chết khô. Người dân Phước Thuận truyền tụng rằng ngồi tại đình làng, lấy nơi này làm hệ quy chiếu ngó ra đèo Đá Trạc hướng Cửa Đại, Hội An có mống (7 sắc cầu vồng) đóng thì trời có hạn. Đấy là phóng tầm mắt ra xa. Còn nếu người dân làng nhìn gần chỉ thấy: Mống Đá Trạc không khát cũng khô. Hoặc, tục ngữ tại làng có: Mống Cu Đê chạy về dọn gác. Ngồi tại đình Phước Thuận ngó về hướng sông Câu Đê qua ngõ Đại La có mống là trời lụt. Và nếu nhìn gần thì lại: Mống Đại La mưa sa bão táp.
Điều đó cho hay rằng người dân làng Phước Thuận lấy đình làng là trung tâm của mọi sinh hoạt và cũng là trung tâm của mọi dự đoán và từ tâm lý này có thể nhìn nhận được rằng đình làng ngày xưa là trung tâm, là nơi dân làng ngưỡng vọng, đấy cũng là nơi tập trung mọi buồn vui, ái nộ của làng, là nơi thể hiện lịch sử - văn hoá chung của làng. Nơi thờ Thành hoàng làng. Từ đây chúng ta có thể hình dung ra được thanh niên nam nữ Phước Thuận xưa thường tụ tập về đình làng sinh hoạt văn nghệ. Thế nên từ đó những câu ca dao, tục ngữ, có cả hát hò cũng ra đi từ ngôi đình làng, vì đấy là khu vực trung tâm làng. Ngày xưa cả vùng rộng lớn của Phước Sơn đại xã và về sau là đất Ngũ Phước vẫn phải lấy đình là trung tâm cho mọi sinh hoạt của người dân trong làng. Huê tình ca cũng trong hoàn cảnh đó mà ra đời và được ghi chép lại như một minh chứng cho những lần sinh hoạt văn nghệ dân gian nơi làng quê trung du yên ả của Phước Thuận xưa.
Trong lịch sử phát triển làng, Phước Thuận luôn có sự tiếp xúc, giao lưu với các làng bộ lân cận qua việc di cư đổi nơi cư trú, qua hôn nhân, phát triển kinh tế, trao đổi các sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Do đó văn hoá làng Phước Thuận không đóng khung trong môi trường diễn xướng nhỏ hẹp của làng mà còn tìm nhiều cách lan toả ra bên ngoài, chính đó là giao lưu và tiếp nhận biến đổi các thành tố văn hoá cho hợp với phong thổ địa phương, nâng lên thành cái riêng Phước Thuận. Văn hoá văn nghệ dân gian tại làng Phước Thuận xưa, qua tư liệu Hán – Nôm Khoán ướcHuê tình ca cho thấy hoạt động hò hát diễn ra thường xuyên vào những ngày nông nhàn, những đêm trăng thanh, có lễ hội thì sinh hoạt càng có dịp phát triển. Các loại hình hò khoan đối đáp, nói vè, chiếu tuồng… được tổ chức biểu diễn và được mọi người quan tâm tham dự, nhất là lực lượng trai tráng lực điền, nam thanh nữ tú trong làng.
4. Huê tình ca Phước Thuận xã
            Đây là cuốn sách viết kiểu chữ Nôm trên loại giấy dó bằng mực xạ, chép lại những bài ca của thanh niên nam nữ xã Phước Thuận, huyện Hoà Vang. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Phước Thuận là xã cánh tây của huyện Hoà Vang, đất đồi gò, vùng trung du, tiếp giáp từ chân Bà Nà - núi Chúa xuống và núi Phước Tường lên, kinh tế thuần nông, chủ yếu là làm ruộng và trồng trọt các loại hoa màu khác như khoai, sắn, các loại đậu, mè (vừng), một ít gia đình có chăn nuôi bò, có cả bò bầy. Sau cách mạng, xã Phước Thuận đổi thành thôn Phước Thuận thuộc xã Hoà Nhơn, huyện Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

            Cuốn sách "Huê tình ca" (hát huê tình) sau khi phiên dịch từ Nôm ra tiếng Việt là tập hợp những bài ca dân gian, phần lớn dùng trong hát hò khoan, ngâm nga giải trí, một trong những thể loại đặc trưng của văn nghệ dân gian Quảng Nam, Đà Nẵng. Đôi khi cũng dùng cho phong cách tự sự. Sách không có cốt truyện, có 45 bài chia làm 4 phần, mỗi phần thể hiện một chủ đề.

            Phần I: Huê tình ca  có 7 bài, tập trung ngợi ca tình yêu đôi lứa, thể hiện tâm tình nam nữ trong làng.

            Phần II: Lý Mã Hiền đoạn . Có 13 bài, cảm tác từ trích đoạn  tuồng Lý Mã Hiền, phần Ngọc Dung - vợ Lý Mã Hiền - bị chú mình dùng cung tên sát hại. Thông qua phần này cho biết ngày ấy người dân làng trung du Phước Thuận đã tiếp cận với tuồng, và thích xem tuồng đồ, thường đến với các chiếu tuồng.

            Phần III: Kiều tích ca. Có 9 bài. Cảm hứng từ Truyện Kiều (Nguyễn Du), bài ca xúc cảm từ những tình huống xảy ra trong mười lăm năm Vương Thuý Kiều mắc nạn, đầy nỗi dằn vặt, phải đau khổ lắm trước khi có thể vượt qua được những nghiệt ngã.[4]

            Phần IV: Cách cú. Có 16 bài. Là những câu ca thở than về tình yêu chông chênh, xa cách giữa nam nữ trong làng.

            Sách Huê tình ca được chép bằng chữ Nôm đầu đời Minh Mạng, đến năm 1941, Bảo Đại thập lục niên, nhuận nhị ngoạt, sơ tứ nhựt được sao lục lại lần nữa [5]. Năm 1997, cụ Võ Văn Xuân người làng Đông Phước, xã Hoà Phát, huyện Hoà Vang phiên âm từ Nôm sang Việt.

            Huê tình ca là tiếng ca vui buồn từ những chuyện tình mà thông thường người ta vẫn đọc cho nhau nghe trong những lần sinh hoạt văn nghệ trong làng hay có thể là hát hò khoan đối đáp huê tình vào những đêm trăng sáng. Vì đây là thể loại dân ca dân gian, do đó cho phép ta nghĩ rằng thông qua hình thức diễn xướng trong sinh hoạt văn nghệ làng xã, nam nữ thanh niên Phước Thuận xã nhớ và tập hợp có bài bản, tự ký nhằm lưu giữ và phổ biến lâu dài, đồng thời tránh nguy cơ bị quên lãng cùng với thời gian theo năm tháng đời người.

            1. Đúng như tên gọi của nó, "Huê tình ca" càng hát càng thấy gay cấn, ngổn ngang, cái ngổn ngang có thật nơi trần thế. Thường chỉ hai nhân vật: chàng - nường (nàng) hoặc chàng - em, có khi thay thế bằng hai đại từ: đây - đó. Chủ thể trữ tình được nhấn mạnh tạo nét viền đậm vì đấy là đối tượng phản ánh. Họ thường đổi vai nhau trong lúc hát, khi ngổn ngang về phía nữ, lúc trục trặc thuộc về nam. Chuyện của những chàng trai cô gái xảy ra trong không gian vật chất cụ thể làng Phước Thuận, tuy hẹp ở xóm làng nhưng lại có đủ những cung bậc phức tạp của thuộc tính tâm lý tình yêu trong quan hệ xã hội, con người. Cái ao ước, khát vọng trăm năm của các nhân vật dân gian trong sách chẳng bao giờ cũ cả. Mọi thời đại, tình yêu thương vẫn là cốt lõi trong quan hệ con người. Một người con gái ray rứt với nỗi buồn vời vợi, yêu suốt quãng đời con gái, nhưng chỉ một lúc nào đó: Chiều chiều một gánh cang thường, Nỗi nầy cho phỉ biết tường cùng ai, Dẫu mình thác xuống tuyền đài, Dầu nay khuất mặt, hậu lai cũng gặp chàng. Hoặc: Phân ra cho rõ cội nguồn, Đừng tham phú quý bỏ nghĩa nầy bơ vơ.Tất nhiên với tình yêu đôi lứa trong nỗi u hoài luôn có hy vọng nhóm lên.

            2. Khác với Huê tình ca là cảm tác từ những trích đoạn tuồng Lý Mã Hiền, đoạn Ngọc Dung - vợ Lý Mã Hiền - bị chú sát hại bằng mũi tên. Chủ đề tập trung khai thác, phản ánh bằng thể loại dân ca, qua chiết đoạn Ngọc Dung gặp nguy. Đây là đoạn thương cảm nhất, thể hiện sự đau xót cho kẻ ngay ngộ nạn. Khuyên em ráng bước chưn dời, Lên yên tị nạn lánh hồi tai ba...Ruột đau từ đoạn như giần, Phần thời bị mũi tên thần, Phần thời đau dạ, khổ muôn phần chàng ơi. Vào thời điểm bị tên bắn, ốm nặng, lại trở dạ muốn sinh, tiều tuỵ lắm rồi nhưng ai biết đâu lòng cô vợ trẻ lại long lanh ý thức tuyệt vời và trong sáng: Đạo cương thường trời khiến bỏ nhau, Thương cho chàng đỡ trước ngăn sau có một mình. Chỉ mỗi lời nguyện ước sống có nhau nhưng mà hỡi ơi, thật khủng khiếp làm sao, những bài ca từ chiết đoạn là một tấm lòng của một con người, họ đã sống một cuộc sống tình cảm dằn vặt, khổ tâm với những kỷ niệm nhức nhối, và người vợ trẻ - Ngọc Dung - mong được chết nhẹ nhàng, êm ả. Rất dân gian và rất gần gũi với cuộc sống đời thường nơi quê kiểng.

            3. Không có nỗi đau nào giống nhau cả, "Kiều tích ca"  là những tiếng thở than, thương tiếc, cảm hoài cho một đời tài hoa nhưng phận bạc. Có một ít ước mong về hạnh phúc thôi, mà sao thật khó! Âm thầm chịu đựng, âm thầm đau. Đau trong âm thầm hy vọng như Kiều đã có lần hy vọng trong than thở: Đã hay hoạ khởi vô đoan, Thằng bán tơ gieo hoạ nên thân nường khổ thay, Còn gì một chút đoạ đày, Dẫu có khôn bảy vạn cũng tay giang hồ. Nỗi đau ngoài ước muốn của Kiều cũng là của “nữ nhi" đôi khi cũng gặp nơi làng quê trung du yên ả nầy, từ đây một câu ca, một tiếng hát bật lên trôi nổi, thở than. Điều không mong đợi, đơn giản nhưng lại ngoắc vào tâm trạng những ngổn ngang nhức nhối: Bởi Hoạn Thơ có dạ ghen tuông, Đem thân đày đoạ nghĩ phận nường không ra chi, Làm cho mặt bủng da chì, Sự hoàn chi hậu bỏ đi lên chùa, Cho hay tài sắc kém thua, Duyên còn chi nữa mà tranh đua bớ nường....Mười lăm năm bướm chán ong chường, Chờ cho một kiếp Tiền Đường ra chi. Có thể xem đấy là những trục trặc có thể có trong tình yêu nam nữ. Thế nhưng tha thứ và cảm thông với những trúc trắc vẫn là điều cơ bản, là thước đo tấm lòng của mỗi con người đã được đem ra hát giao lưu cũng là cách nhắc nhở giải bày. Người ta hát về Kiều khách quan không hề ân oán, không lấy oán trả oán, lấy ân trả ân mà cư xử với tấm lòng vị tha đúng đạo nghĩa cang thường như lý lẽ của người xưa vậy: Dẫu không thương cũng nghĩ chút tình. Lẽ mô phụ bạc duyên mình rứa răng, Lời nguyền thuỷ kiệt sơn băng, Non cao tạt dạ, đá bằng đề thơ. Có một điều chiêm nghiệm qua thực tiễn, trong tình yêu tâm trạng bi không ít nhưng chưa thấy luỵ. Nhớ người yêu cũ khôn nguôi rồi liên tưởng đến nhân tình thế thái kèm theo thái độ hoài niệm với nhiều lưu luyến trong các câu ca "cách cú" là điểm nổi lên trong những câu xa cách. Một lớp thế hệ thanh niên Phước Thuận trước cách mạng Tháng Tám trải qua những sóng gió của trần thế ngổn ngang tâm trạng, các câu xa cách gần như hết hy vọng, không giống khúc hát huê tình buổi đầu tiên. Nỗi niềm đây ruột thắt trăm chiều, Đã mang phận bạc kêu thời với trời xanh. Cũng có mối quan hệ tham lam, bủn xỉn, khôn vặt, vụ lợi. Tuy thế vẫn không ngờ ở cái xã Phước Thuận ngày nọ lại có những con người vươn lên trong sinh hoạt tinh thần, làm đẹp cho xứ sở quê hương như vậy. Nghĩ như ta với bạn còn thiếu niên, Ngày xuân không lẽ ôm duyên ngồi chờ.

            Như thế, vẫn thấy nhân vật trong sách hiền hậu, trải nghiệm và thật thà. Kể cũng đáng trân trọng, đáng yêu sao bởi không luỵ vì tình. Đấy là cái quý của  Huê tình ca Phước thuận xã. Dẫu thế, những câu ca dân gian hát về xa cách không thiếu chất lãng mạn, tao nhã. Huê tình ca có giọng điệu riêng của miếng đất đồi gò, trung du, bán sơn địa, thuần nông nghiệp trải qua bao lần đổi thay của đất nước, người dân Phước Thuận đã thể nghiệm đủ những ngổn ngang của cuộc sống trần gian, họ đã định hình, lưu giữ được những bài ca, làm bằng chứng cho phương thức sinh hoạt văn nghệ dân gian làng xã phát triển một thời.

            Một cuốn sách tâm tình nam nữ được dân gian lưu hành ở một làng nhỏ phía tây thành phố Đà Nẵng cho ta nhìn được không gian của những cuộc biểu diễn dân gian làng Phước Thuận với những tâm tình ngưng đọng, những sinh hoạt, cả phong tục, cách xử sự với tha nhân, lời ăn tiếng nói với khung cảnh làng quê, thiên nhiên, cỏ cây, vườn tược, con người...phong phú nhiều mặt. Những bài ca có lời văn dí dỏm, sắc sảo, quê kiểng, mang đậm dấu ấn dân gian làm nổi bật một làng quê trung du mà nay vẫn còn đọc cho nhau nghe những bài ca dân dã. Chính đó đã góp phần nhỏ vào công tác giữ gìn di sản văn hoá Hán – Nôm quý báu tại địa phương, nuôi dưỡng tinh thần, sức sống dẻo dai của người Hoà Vang nói chung và người dân tại làng Phước Thuận nói riêng để vươn lên xây dựng đời sống văn hoá tại một làng quê trung du cánh tây huyện Hoà Vang. Việc sưu tầm, giữ gìn các tài liệu Hán – Nôm có trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhằm bảo tồn, lưu giữ để các thế hệ mai sau có thể sử dụng, cảm thụ và thưởng thức được những giá trị văn hoá địa phương, nâng cao hiểu biết về một thời kỳ những thế hệ đi trước đã ra công làm đẹp cho làng xã quê nhà.

            Tuy nhiên cũng sẽ nhìn nhận rằng không phải những gì của nhân dân làng Phước Thuận sản sinh ra trong quá khứ đều là những cái tốt, cái hay, cái đẹp mà không có những cái hạn chế, yếu kém đan xen. Chính đó, việc sưu tầm ghi chép lại vốn văn học quý này tại làng Phước Thuận vẫn phải trên tinh thần “gạn đục khơi trong”, đánh giá cho trúng những tích cực có trong văn nghệ dân gian, chỉ ra những hạn chế để tìm cách khắc phục tốt hơn.



[1] Tiếp tục triều trước nhiều đời, năm Giáp thìn, bổn xã di dời đình, xây dựng lại theo hướng tây – nam, nơi đất tốt. Ngày 9 tháng 8, giờ thìn thượng lương.
[2] Đà Châu: tức châu Đà Na là thung lũng Phước Sơn đại xã.
1 Bản khoán ước nguyên văn bằng chữ Hán do ông Trần Phước Hoàng 65 tuổi (nhà thơ Phước Đồng), thôn Phước Thuận lưu giữ, ông Nguyễn Đình Thảng, nguyên giảng viên Khoa Ngữ  văn - Đại học Khoa học Huế dịch. Tài liệu dẫn theo Hồ Tấn Tuấn, Tạp chí Văn hóa Đà Nẵng 2007.
[3] Gò Chòi: từ triền ruộng hố Bạc làng Phước Sơn đại xã lên dương núi Phước Tường đi ra ngõ Đà Sơn chừng 2 km gặp Gò Chòi. Trên gò có cái chòi nơi quan quân, người dân qua lại có nơi nghỉ chân. Còn gọi là Chòi Mông (mông lung nhìn xuống xem chừng thú dữ, cướp đường…). Câu trên dân gian vận dụng phương thức lái trong tiếng Việt.
[4] Trong công tác điền dã về làng Phước Thuận (xã Hoà Nhơn), chúng tôi gặp văn bản chữ Nôm bình luận về nhân vật Thuý Kiều bằng văn xuôi. Qua văn bản cho biết họ rất quan tâm đến tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du, đặc biệt đánh giá nhân vật Kiều theo cách nhìn có đối chiếu vào các giềng mối, đạo đức  Nho gia đối với người phụ nữ.
[5] Người làng Phước Thuận kể rằng sách do cụ Hồ Đạm chép lại những bài ca do nam nữ thanh niên trong làng hát với nhau.