Trương Đình Quang
Trò chuyện
quanh bộ bài chòi
Bạch huê và nhứt nọc
Trong dân
gian, trò chơi bài chòi dùng bài tới [[1]],
hay bài trùng [[2]].
Bộ bài gồm có 30 con bài nhiều loại, mỗi loại có 3 con trùng nhau. Tên và mặt
mũi con bài trùng khá lạ. Có những tên như Nhứt
nọc (Nọc thược), Nhì nghèo, Ông ầm, Tứ cẳng, Tám miểng, Sáu ghe,v.v...
Con baigf
được làm bằng hồ giấy pha vôi, chiều dài độ 6,7cm, chiều rộng độ 1,5cm. Mặt con
bài khong ghi chữ như con tổ tôm, mà chỉ là những hình vẽ rất thô sơ, như lối
văn tự tượng hình. Ví dụ: con bài Tám
miểng (miểng có lẽ thổ ngữ có nghĩa là mảnh), vẽ 8 mảnh đen, xếp thành 2
cối đối mặt, con bài Ông ầm vẽ 1 cái
mặt vằn vện, như mặt quỷ ngay ở giữa,...Ngày nay, có chữ Việt ở đầu con bài: Sáu tiền, rún, xơ, đấu, v.v...
Đáng chú ý
hơn cả là trong bộ, có 2 con bài Bạch huê (còn có tên là Liễu) và Nhứt nọc (còn có tên là Họ trò, Nhứt trò, Nọc thược).
Con bài Bạch huê ở câu hô tuy dân dã, nhưng cũng pha chút văn chương bác
học:
Hoa
phi đào, phi cúc
Sắc
phi lục, phi hồng
Trơ
như đá, vững như đồng
Ai
xô không nagx, gió lừng không xao
Mỉa
mai cụm liễu, cửa đào
Ong
vô muốn đậu, bướm vào muốn bu
Bốn
mùa, xuân hạ đông thu
Khi
búp, khji nở, khi xù, khi trương
Chúa
xuân ngó thấy mỉm cười
Sắc
hay vươn vấn mấy người tài danh
Có
bông, có cuóng, không vành
Ở
trong có nụ, bốn cành có tua
Nhà
dân cho chí nhà vua
Ai
ai có của, cũng mua để dành
Tử
tôn do thử nhị sanh
Bạch
huê mỹ hiệu, xin phành ra coi.
Có lúc thì liều lĩnh, trắng trợn:
Xu
xoa chị bán mấy đồng
Chị
ngồi chị để lộ cái mồng của chị ra
Con
quạ hắn tưởng bánh đa
Hắn
đớp một miếng, chị la hướ trời !
Anh hiệu kết thúc câu hô con bài: lá...l...
Câu hô con bài Nhứt nọc đứng đắn:
Đi
đâu mang sách (trắp) đi hoài
Cử
nhân chẳng thấy (mà) tú tài cũng không.
(Nhứt
trò)
Có lúc lăng nhăng, ba xạo:
Con
cu ăn lúa, ăn mè
Ăn
chi của chị (mà) chị đè cu tôi.
(Nọc
thược)
Có lúc, đố tục giảng thanh, xô bồ, cười cợt:
Năng
cường, năng nhược
Năng
khuất, năng sanh
Nó
(là) vốn thiệt cục gân
Ngồi
gần con gái, trân trân chẳng xìu.
(Nọc
đượng)
Anh hiệu
kết thúc câu hô con bài: con...c...
Có người
nghiên cứu nghĩ đến yoni và linga, và (có thể là), một kiểu bài của dân tộc
Chăm, ghi bằng văn tự hình tượng hay lối vẽ ước lệ của họ, và phản ánh tục thờ
sinh thực khí.
Mối quan hệ
giữa bài tổ tôm với bài chòi (Từ đây, tôi dùng tên bài chòi thay cho các tên
bài tới, bài trùng) [[3]]
Có người
nhận xét rằng, bộ bài chỏi bắt nguồn từ bài ttổ tôm. Căn cứ của ý nghĩ ấy, là
hiện tượng các con bài trong bộ bài chòi, cũng có đủ từ 1 đến 9, có những tên
gọi nhứt, nhì, tam, tứ v.v,..., và có thể xếp theo như các pho văn, vạn, sách của tổ tôm, mà có thể là
chứng minh cho sự “nho hóa” bài chòi, có thể do tình hình nho hóa của ngữ vựng
và dụng tâm tham khảo tổ tôm, để chỉnh lý bài chòi của các nhà nho bình dân
chăng?
Thử so sánh
pho sách của tổ tôm và pho mà nhiều người cho là tương ứng bài chòi. Tổ tôm có Nhất sách, Nhị sách, Tam sách, Tứ sách, Ngũ
sách, Lục sách, Thất sách, Bát sách, Cửu sách. Bài chòi có Nhứt nọc, Nhì nghèo, Ba gà, Tứ tượng, Ngũ
nhặt, Sáu bường, Bảy thưa, Tám nức, Cửu điều.
Thật khó mà nghĩ rằng, những con bài Nhứt nọc, Nhì nghèo, Ba gà v.v...lộn xộn
đủ tứ ấy lại có thể là sự “dân gian hóa” những con “sách” rất chặt chẽ trên
kia. Ở pho văn, pho vạn, cũng có tình trạng như thế. Do nguyên nhân gì, mà con
“chi chi” của tổ tôm lại biến thành con “bạch huê” của bài chòi. Như thế, có
lẽ, ta nên nghĩ đến một quá trình nho hóa của bài chòi hơn là quá trình dân
gian hóa tổ tôm. Sự biến chuyển của bài chòi đến gần tổ tôm, cũng có thể do sự
giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và Chiêm Thành từ xa xưa. Có hiện tượng gọi
một số con bài tổ tôm theo tên bài chòi như Cửu
vạn là
Chùa, Bát vạn là Bát bồng v.v...; nhưng tuyệt nhiên, không hề có hiện tượng gọi
những con bài chòi bằng tên bài tổ tôm. Và, cách xếp bài chòi theo 3 hàng văn, vạn, sách như tổ tôm có ở Quảng Nam
lại rất ít thấy ở Bình Định. Và, cách xếp ấy, cũng chỉ xảy ra trong cách chơi
của tầng lớp trên, chứ không thấy trong dân gian. Điều ấy cũng góp thêm chứng
minh cho luận điểm “bài chòi bị nho hóa” và góp phần “xét lại” luận điểm “bài
tổ tôm được dân gian hóa”.
[1] Trò chơi bài
chòi, Huỳnh Đình Kết, Văn hóa dân gian Thừa Thiên – Huế, tháng 11/1995, tr.
91.
[2] Hội bài chòi ở
Quảng Bình, Nguyễn Tú, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 1/2006, Hội VNDGVN,
Tr.120. Lịch sử ca kịch và âm nhạc bài
chòi, Hoàng Lê, Sở VHTT tỉnh Bình Định.
[3] Vào dịp trao đổi ý kiến về bài chòi với Mịch Quang,
nhà nghiên cứu văn hóa và kịch hát dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét