Xin được bắt đầu bằng hai nhịp mở của lời ca dao thống thiết với
những tiết tấu quen thuộc đã đi vào lòng người Đà Nẵng từ thưở Tây lại sứ sang. Nhưng điều ấy sẽ được
làm rõ hơn, sẽ diễn luận rộng hơn trong các trang viết sau. Trước hết, hai câu
mở đã phác hoạ trên nên một đối cảnh đau lòng “Đứng bên ni Hàn/ Ngó qua bên tê Hà Thân”. Chúng ta dừng lại ở nhịp
ngắt mạch ấy, để lắng sâu vào tâm hồn mình với trạng thái chủ thể quặn thắt giữa
“bên ni “ và “bên tê “ của hai bờ ruột thịt.
Bên
ni là đất nhượng địa, là đất bị giặc chiếm đóng. Bên tê là vùng nông thôn cơ cực, xác xơ! Bài ca dao bước ra từ sau ngày giặc chiếm
đóng quê nhà.
Tuy nhiên trước khi Pháp quyết định liên
quân cùng với Tây Ban Nha chính thức đánh chiếm Đà Nẵng, một tiền cảng quan yếu
(avant port important), thì bọn chúng đã nhiều lần dọ thám, rồi hăm dọa, phô
trương lực lượng, thị uy thanh thế. Những sự kiện ấy được lật ra từ sử liệu:
Năm 1822, và năm 1825, hai lần Pháp
đưa tàu chiến vào cảng Đà Nẵng để giương
oai. Bọn chúng đòi triều đình Huế thả các giáo sĩ bị bắt. Đòi được tự do
buôn bán.
Năm 1845, lại hai lần nữa chúng
dọa dẫm rồi bỏ đi.
Hai năm sau đó, tháng 3 – 1847,
tàu Pháp vào Đà Nẵng, thuyền trưởng và các giáo sĩ ngang nhiên xông thẳng vào
công quán.
Ngày 15 - 4 - 1847, tàu chiến Pháp bắn
phá các chiến thuyền của triều đình neo đậu trong vịnh Đà Nẵng, làm tê liệt hầu
như hoàn toàn lực lượng hải quân của vua Thiệu Trị. Đây là hậu quả, là yếu tố
tất nhiên đối với một nước nhược tiểu trước vũ khí hiện đại lúc bấy giờ của hai
đế quốc xâm lược.
Ngày 01 - 9 - 1858, sự kiện đất nước đã
chính thức đưa địa thế quan yếu, tài nguyên hấp dẫn, non nước hữu tình, vị trí
trung độ của tổ quốc thân yêu này, giao cho
người dân Quảng Nam nói chung, Đà Nẵng nói riêng, một trọng trách vinh
quang nhưng cũng muôn vàn gian khó, và đầy thử thách trong sự nghiệp đi đầu
chống thực dân Pháp xâm lược.
Vì sao hoàng đế nước Pháp, Napoléon đệ
tam, huấn lệnh cho Thiếu tướng Ri - gôn Đờ gờ - rờ - nuôidi (Rigault De
Grenouilly), về sau vị này trở thành Đô đốc hải quân, buộc ông ta “Ngay lập tức phải chiếm cho được vịnh và
lãnh thổ Đà Nẵng, làm chủ vị trí này”? Câu trả lời không có gì khó khăn cả.
Bởi đây là địa thế chiến lược quan trọng của một tiền cảng, cách đất liền chưa
tới 3 cây số. Bởi cảng Đà Nẵng là đầu mối trung tâm tọa độ trên đường hàng hải
quốc tế. Bởi sự phong phú hấp dẫn của tài nguyên. Bởi ngọn núi Sơn Trà là bình
phong án ngữ gió bão tàu thuyền, đồng
thời là đôi mắt trông ra biển khơi, quan sát và canh giữ vững vàng phía Đông
thành phố.
Sau khi được tin liên quân Pháp và Tây
Ban Nha chiếm Đà Nẵng vào ngày đầu tiên của tháng 9 – 1858, Hoàng Giáp tam đăng
Phạm Văn Nghị (1805 – 1880) lúc này ông đang ngồi ghế Đốc học Nam Định (tương
đương với Giám Đốc Sở Giáo dục ngày nay) “Giận
sôi, tóc dựng mũ, bút gát khá thua ai”. Ông liền tập hợp nhiều nhân sĩ Bắc Kỳ, tổ chức đạo quân 300 người tình
nguyện, cấp tốc vào miền Trung đánh giặc. Khi đến Huế thì nghe tin giặc đã lui
và đã chuyển quân. Vua Tự Đức (1848 – 1883) chỉ dụ cho ông về lại Nam Định, với
lời phê 4 chữ “Tuế hàn tùng bách” –
Gặp năm rét mới biết cây tùng, cây bách là cừng cỏi.
Về sự kiện lịch sử đầy
nước mắt ấy, Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị đã để lại cho hậu thế bản tuyệt tác thi
ca Trà Sơn quân thứ ( Hành quân vào
Trà Sơn). Một khúc văn chương Việt Nam hào hùng yêu nước và cách mạng
cận đại:
Nộ
mục Trà Sơn xu lỗ lai
(Căm thù mắt
thấy giặc cướp đánh Trà Sơn)
…
Như thử giang
sơn như thử dân
Thái bình
quốc thế vạn niên xuân
Nguyễn Văn Huyền dịch:
(Sĩ dân đó,
núi sông đó
Muôn năm bền
vững nước non này)
Chúng ta có thể hoàn toàn khẳng định
rằng, khí thế chống giặc Pháp vào mùa Thu năm 1858 của nhân dân Quảng Nam - Đà
Nẵng là sự nghiệp thiêng liêng, mở đầu cho sự nghiệp truyền thống chống ngoại
xâm của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Kiêu hãnh biết bao với Hoàng Giáp Lê Khắc
Cẩn, bằng chất giọng hùng tráng, hào khí ngất trời. Giọng thơ dễ làm cho mọi
người liên tưởng đến hình ảnh danh tướng Đặng Dung mài kiếm dưới trăng. Lê Khắc Cẩn đem nhập cái nguyên khí đất trời
vào gươm, kiếm:
Phải nên
xông ánh sao để làm gươm
Mượn gió
gào để làm súng
Thường
ẩn nấp nơi núi Trà, trên các đỉnh cao
Ở bể Cần,
ngoài các khe vũng
Lã
Xuân Mai ( dịch)
Những bài thơ đã xác lập về thời gian ra
đời, đồng thời đã định hình cho sự tồn tại. Nếu như Hoàng Giáp tam đăng Phạm
Văn Nghị nộ mục Trà Sơn, Hoàng Giáp
Lê Khắc Cẩn xông ánh sao mài gươm., thì
với Bảng Nhảng Phạm Thanh lại thể hiện khí thế qua bút pháp dũng mãnh, động
viên, khích lệ, nêu cao ý chí quyết tâm chiến đấu:
Nghe tiếng súng Non Trà nổ dữ
Những
muốn săn cho hết giống lợn dữ không tha
Trông
khói tàu Cần Hài bốc cao
Những
muốn chém cho hết loài cá kình mới hả
Thẳng tiến để xông pha giết giặc
Cái
chết coi dễ như chơi
Đối với La Hữu Trung lại
là nỗi cảm hoài sau khi Pháp rời Sơn Trà để tiến chiếm Vũng Tàu:
Thuyền Tây khói lửa dọc ngang
Lui nơi
Đà Nẵng lại sang Cần Giờ
Làm cho
trăm họ ngẩn ngơ
Trụ hương
mưa bạt, diềm thờ ngó nghiêng
Đó là những câu tâm huyết
đau lòng “ứa” ra sau ngày 11 – 02 - 1859, quân Pháp rời Đà Nẵng, tiến quân đánh
chiếm Cần Giờ (Cần Hài), một cảng biển nằm sát Vũng Tàu.
Mặc dầu bọn giặc đã làm chủ trên đất
liền cũng như trên biển vịnh. Nhưng chúng đâu có làm chủ được trái tim và ý chí
của nhân dân Đà Nẵng bất khuất. Chúng chỉ nắm cái xác, đâu có nắm được phần
hồn. Vườn không, nhà trống, phố hoang, người thưa vắng, đến nỗi làm cho
chúng lo sợ, vô cùng ngạc nhiên, sững sốt trước một khoảng chân không khủng khiếp và hoang mang. Dân ta khẳng khái,
không bao giờ chịu hợp tác với chúng. Điều này đã minh chứng trong một đoạn báo
cáo của Đô Đốc Ri-Gôn Đờ Grờ-Nuôi-di, viết “ Chúng tôi hoàn toàn kiệt quệ. Cho đến lúc này phải bất động tại Đà
Nẵng. Mọi phương diện để cải tiến tình trạng bộ binh và hải quân đều hết sạch
và vô hiệu, Đất mà chúng tôi chiếm được
hoàn toàn bỏ trống, Dân chúng, nhất là giáo dân không hưởng ứng. Không có dân
nổi dậy chống triều đình. Không có dân bất mãn cung cấp tin tức”.
Tài liệu lưu trữ trong thư khố Bộ Pháp
quốc hải ngoại ghi chép lại một sự thật vô cùng bi dát đối với họ: “ Ngay từ những ngày đầu, người Việt Nam đã
tạo ra một khoảng trống chung quanh người Pháp, đạo quân con chiên mà Rigault
de Grenouilly trông chờ, đã không xuất hiện. Trái lại, không có một con chiên
nào dứng trong hàng ngũ Pháp và những lời cam kết cùng hứa hẹn của những người truyền
giáo, là sẽ có mặt trong đoàn quân viễn chinh Pháp, đã không được chứng thực tí
nào” .
Tháng 11 – 1858, nước sông Hàn, sông Nại Hiệp sục sôi, kiêu
hãnh trước lòng dũng cảm của quân và dân ta. Các dũng tướng Đào Trí, Nguyễn
Duy, Nguyễn Tri Phương, Lê Đình Lý đã hợp tác chiến đấu anh dũng, đẩy lui sức
đánh phá của giặc.
Ngày 22 - 3 - 1860, Pháp rút khỏi Đà
Nẵng, quân và dân nơi đây đã dùng tre phên nện đất, chất đá làm thành lũy. Kết
xích sắt ngăn sông,
Tuy nhiên kinh nghiệm chiến trường trên
bộ cũng như trên sông nước đối với chúng ta, một dân tộc có truyền thống yêu
hoà bình, chuộng tự do, thì làm sao có thể chống trả được giặc trong tình thế
cấp bách trước sức mạnh của những đội
quân chuyên đi xâm lăng! Mặc dầu vậy, nhưng vị tướng An Tây trí dũng Nguyễn Tri Phương đã buộc Pháp phải chuyển đổi thế
trận theo chiến lược của ông trong cách bố trí quân tài tình. Ông dùng thuyền
nhỏ, chia quân thành phân đội. Áp dụng chiến thuật du kích, phản công bất
ngờ, gây bối rối tinh thần quân địch. Chinh phục bằng nhiều gói nhỏ (Conquête
en petis paquets), đưa chúng đến chỗ sa lầy.
Chiến thắng kiên cường và quả cảm của
quân dân Đà Nẵng, giặc Pháp đã để lại một tháp
hài cốt chứa hàng ngàn thánh giá!
Về phía ta, hai nghĩa
trũng Phước Ninh và Hóa Khuê – những nghĩa trũng đầu tiên của đất nước, được
tưởng niệm dựng lên vào năm 1862 theo chỉ dụ của vua Tự Đức (1848 – 1883) –
một chứng tích thiêng liêng trên quê
hương yêu dấu.
Đà Nẵng của không gian xanh nắng, của Non
Nước Ngũ Hành Sơn kỳ ảo, của bầu trời khác lạ khi từ Huế - Xứ Mưa buồn, vừa vượt quá Hải Vân. Sự chuyển dịch bất ngờ về thời
tiết hai nơi, đã làm cho Tản Đà xúc cảnh;
Hải
Vân đèo lớn vừa qua
Mưa Xuân
thoắt đã đổi ra nắng hè
Và cái nắng hè ấy, bầu trời xanh binh yên
thơ mộng ấy đã bị giặc hóa mây u ám, để tròng vào cổ người dân Đà Nẵng cái ách
nô lệ, buộc vào đôi chân sợi xích đi xâu,
khóa vào đôi tay mười ngón bòn vàng.
Từ đó đã phát sinh nên lời ca dao thống thiết:
Đứng bên
ni Hàn
Ngó qua
bên tê Hà Thân
Nước xanh
như tàu lá
Đứng bên
tê Hà Thân
Ngó về
Hàn, phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày
Tây lại, Sứ sang
Đi xâu,
nộp thuế, làm đàng khổ thân
Hãy lắng sâu tâm hồn bằng nhịp đập trái
tim yêu quê hương, bằng những đảo phách ngậm ngùi. Còn nỗi đau nào hơn nỗi đau
bị nô lệ. Ngôn ngữ hình như trở nên bất lực trước sự diễn đạt của tấm lòng xót
xa thăm thẳm! Hình ảnh nước xanh như tàu lá, vẽ ra bức tranh xanh
xao, nhợt nhạt, gió xé tơi tàu lá quê nghèo.
Ngó
về Hàn, phố xá nghênh ngang. Ơi con phố ngược ngang gót giặc, mà cùng là
con phố đô thị hóa ồn ào. Và kể từ ngày ấy, ngày Tây lại Sứ sang, biết bao nỗi lầm than ụp xuống đầu người dân cơ
cực. Hoàn cảnh đã kết thêm những lời dị bản ở câu cuối của bài ca:
Kể từ ngày Tây
lại đất Hàn
Dào sông Câu
Nhí, bòn vàng Bông Miêu
Dặn lòng ai dỗ
đừng xiêu
Ở nuôi phụ
mẫu, sớm chiều có nhau
Và câu cuối ấy, được
chuyển đổi lời ca:
( Mưa mai có bạn, mưa chiều có ta)
( Trăm năm đi nữa, lá cờ điều cũng
đừng phai). Lời thủy chung son sắt
Ngày 26 – 8 -1945, sau khi Đà Nẵng
cướp chính quyền, giành độc lập. Thành phố được vinh dự mang tên nhà yêu nước
Thái Phiên. Nhưng rồi chúng ta lại phải đương đầu với bọn thực dân tái chiếm
quê hương:
Thành
Thái Phiên đắm mình trong máu lửa
Đất anh hùng lần nữa quyết hy sunh
(Tế Hanh)
Những năm 1946 – 1947, tinh thần chiến
đấu chống đế quốc Pháp xâm lược của quân – dân Đà Nẵng đã cuộn vào dòng thác lũ
cả nước đồng tâm đứng dậy diệt thù. Những trận dánh địch dọc theo phía Nam sông
Cẩm Lệ, phá cầu Thủy Tú, ngăn chận bước tiến quân dịch. Tự vệ dùng bom phá sập
nhà máy đèn. Bộ đội ta suốt một ngày quần
nhau với giặc tại cổ viện Chàm. Nơi bốt đội Cang, say men chiến đấu. Quân
Pháp hoảng kinh, chạy trốn vào chùa Phật học.
Các ngày 20 và 21 - 12 – 1946, bộ đội
liên kết với dân quân tự vệ Đà Nẵng, Hòa Vang hợp tác chiến đấu đánh địch tại
chợ Mới
Từ
ngày 23 - 12 - 1946 đến ngày 07 – 01 – 1947, Pháp đánh ra ngã tư Yên Khê, gặp
phải sự kháng cự dũng mãnh và quyết liệt
của tiểu đoàn 19. Địch bị đẩy lui.
Cuối tháng 12 năm ấy, tại bến đò Xu,
tiểu đoàn 101, trung đoàn 93 đã cho hằng 100 tên lính Pháp về chầu Hà bá. Ngày 07 – 01 – 1947, quân
giặc tại cấm Hòa Mỹ bị ta đánh tan. Tại Đa Phước, chúng bị đẩy ngược. Những
cuộc “tổng nhiểu loạn” gây cho Pháp hoang mang, lo sợ. Pháo của ta từ bến đò Xu
nã vào vị trí địch. Mìn của ta đặt trên đầu máy xe lửa, mở máy chạy thẳng vô
sân bay. Chúng hoảng hốt. Ôi! Những trận đánh ngoạn mục.
Trước chiến thắng hào hùng của quân và
dân Đà Nẵng. Xuất sắc, kiên dũng ngay từ những ngày đầu kháng chiến. Sự mưu trí
và dũng lược ấy, đã được Phạm Văn Đồng,
đại diện Trung Ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ, tặng lá cờ “giữ
vững”. Trong đó có lời khen :” So với
toàn quốc, mặt trận Đà Nẵng được liệt vào hàng đánh mạnh nhất và dẽo dai nhất”
Sách Lịch
sử Việt Nam 1897 – 1918, Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 1999, chúng ta
cùng lật ra trang 360, dọc những lời nhận xét của nhà sử học người Pháp, Jean
Chessaux, viết năm 1955 :”Hạm đội Pháp
tới thả neo trước cửa biển Dà Nẵng hôm 31 – 8 - 1858, không phải là nó tới Việt
Nam để thực hiện một sứ mạng lịch sử nào cả. Trái hẵn lại, nó đã cắt đoạn những
khả năng thực tế phát triển tự thân có sẵn trong dân tộc Việt Nam. Nó sẽ làm
chậm lại sự tiến triển, chớ không phải là thúc đẩy dân tộc Việt Nam tiến nhanh
hơn” Những lời nhận xét khách quan và trung thực của một sử gia tên tuổi.
Hơn một thế kỷ sau, hay nói một cách
chính xác, sau 107 năm (1858 – 1965), kể từ
ngày 01 - 9 - 1858. Ngày 03 - 8 - 1965, nhân dân Đà Nẵng, thêm một lần
nữa, lại phải đối mặt với những thách thức mới. Tiểu đoàn 3, lữ đoàn 9 Thủy
quân lục chiến Mỹ, lần đầu tiên đưa quân đến Dà Nẵng, gây thành một cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ. Từng bước leo thang
đánh phá miền Bắc.
Anh Huỳnh Ngọc Anh, sau này cải danh thành
Huỳnh Trung Việt, để che dấu lý lịch hoạt động cách mạng ở nội thành Đà Nẵng.
Hiện nay anh đang sống tại xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa), nhớ thật
rõ: “Để
tiến tới kỷ niệm 5 năm, ngày thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
(1960 - 1965). Tháng 12 – 1965, đại diện lực lượng Thanh niên – sinh viên – học
sinh Đà Nẵng, đã họp tại nhà ông Phan Liêu, ngõ kiệt số 9, đường Hoàng Diệu.
Các thành viên gồm có: Hồ Ngọc Ninh, quyền bí thư thành đoàn. Hồ Duy Lệ (
cựu chủ tịch Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Quảng Nam, đã nghỉ hưu). Phan Hoàng ( Hoàng Liêu ) hy sinh năm
1972…Anh Khâm, anh Linh…Họp nhau bàn luận phương kế đấu tranh, tuyên truyền, phân phát những tờ rơi dưới
hình thức quay rô-nê-ô”.
Tại bãi biển Thanh Bình, học sinh kết
chuối cây làm bè. Cắm cờ giải phóng, treo
biểu ngữ chống lại nhà cầm quyền. Quân đội Mỹ và lính công binh của Nguyễn Văn
Thiệu tại Đà Nẵng, cho xe thiết giáp ầm ầm kéo xuống, tháo gỡ. Việc làm ấy đã
góp một phần nhỏ mở ra cho hành động xuống
đường.
Năm 1966, là người được dự chứng sự nổi
dậy của đồng bào, sinh viên và học sinh làm chủ thành phố Đà Nẵng ruột thịt
trong hai tháng rưởi, hưởng ứng phong trào khởi xướng của tướng Nguyễn Chánh
Thi, phản kháng sự điều hành đất nước của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Binh
lính và cảnh sát trung thành với chế độ, luôn luôn trong tình trạng đối phó.
Đạn súng lên nòng, đầu đội nón sắt, lưng thắt dây nịt xanh - tuya - rông
(cinturon) dắt quanh đầy lựu đạn. Chúng kiểm tra tuần hành các ngỏ phố, bưu
điện, dọc bờ sông. Vậy mà nhân dân Đà Năng vẫn làm chủ thành phố trong suốt 76
ngày đêm náo nức.
Những sự kiện đã tạo cho con người Đà
Nẵng một phẩm chất cao quý, ưu việt cần thiết để chống lại mọi thù địch. Người
dân luôn luôn ý thức sinh động về sự hiện hữu và trách nhiệm chính bản thân với
Đà Nẵng thân yêu.
Đúng 10 năm sau cuộc đỗ bộ của quân đội
Mỹ lên thành phố Đà Nẵng. Ngày 29 - 3
-1975, ngày đánh dấu trang lịch sử hào hùng, rực rỡ. Toàn quân, toàn dân thành
phố Đà Nẵng đã kết nên vòng hoa chiến thắng kiêu hãnh, giải phóng hoàn toàn
biển – phố thân yêu. Một nét son của cuộc hành trình dân tộc muôn đời. Về đỉnh
cao vinh quang này, nhà thơ Lữ Huy Nguyên (1939 – 1998) đã nối thành dòng chảy
hào hùng. xuyên suốt 120 câu phối cảm. Khổ giữa của bài thơ “ Ngực thành phố - Trái tim và ngực thở”, vang lên lời hào
sảng:
Đà
Nẵng ơi!
Hơn thế kỷ qua đi
Những năm tháng triền miên ngạt
thở
Từ chiến hạm Cô – sanh – sin
Ngút trời đạn nổ
“Trà Sơn rách mắt giặc Tây tràn”
Đà Nẵng là một trong những nơi được đô thị
hóa sớm nhất trong cả nước. Năm 1898, thành phố được xếp loại 2, cùng với Chợ
Lớn, dứng sau Hà Nội, Sài Gòn và Hải Phòng.
Tháng 10 – 1975, tỉnh Quảng Nam và Đà
Nẵng hợp nhất với tên gọi Quảng Nam – Đà Nẵng.
Danh xưng về một giải đất gắn liền như hai anh em trong một nhà. Và khi hai anh em đã trưởng thành, có thể vững
vàng tự lập. Đó chính là thời gian bắt đầu cho hai anh em ruột thịt tách riêng trong một dại gia đình tổ quốc.
Ngày 01 – 01 – 1977, thành phố Đà Nẵng được chính thức trở thành đơn vị hành
chính trực thuộc Trung Uơng. Tỉnh Quảng
Nam từng bước củng cố, xây dựng, dần dần thăng tiến, và Đà Nẵng vươn đôi cánh
rộng tiềm năng, luôn luôn phát triển để xứng đáng với vị trí địa lý – lịch sử -
tiền cảng quan trọng, kiên cường với thế đứng vững bền của trung tâm đất nước
Việt Nam muôn đời.
Ngày 17 - 7 - 2003, thành phố Đà Nẵng được
chính phủ công nhận là đô thị loại I .
Sáu năm sau ngày đăng quang ấy, Đà Nẵng
luôn luôn thể hiện tính ưu việt vốn có, tính năng động của một nền văn hóa không bao giờ tĩnh tại –
một nền văn hóa chiến thắng kiên trung. Tháng 7 – 2009, những đức tính quý báu
ấy đã nối nhịp kỳ diệu chiếc cầu treo dây võng 2000 mét bắc qua sông Hàn. Chiếc
cầu thẫm mỹ hiện đại dài nhất Việt Nam, nối Hải Châu với bán đảo Sơn Trà. Chiếc
cầu khúc xạ hai ngọn nước giao thoa mặn ngọt. Biển và sông hợp lưu con nước
thủy chung. Chiếc cầu dây võng thênh thang 18 thước, xuôi ngược hai lằn xe, dã
tạo ra cho thành phố một thế nhìn đối diện với biển bao la.
Dòng văn hóa không bao giờ tĩnh tại – luôn luôn
tiếp biến. Nền văn hóa của chiến thắng. Vị trí địa lý – lich sử như vậy. Địa linh sinh nhân kiệt, sẽ tất yếu sinh
ra những con người Quảng Nam
– Đà Nẵng như vậy, trong mọi thời đại.
Tài liệu
tham khảo
Lịch sử Việt Nam 1897 – 1918, Nhà xuất bản
Hà Nội, năm 1999
Anamach – Những sự kiện lịch sử Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999
-Nam Trung Bộ kháng chiến 1945 –
1975, Viện lịch sử Hà Nội, 1992
-Tìm hiểu con người Xứ Quảng, Nguyên
Ngọc (chủ biên), Nxb Đà Nẵng, 2005.
- Huỳnh Thúc Kháng – con người và thơ
văn. Nguyễn Q. Thắng, Nxb Văn học, năm
2001.
- Văn học Dân gian Quảng Nam , Nguyễn Văn Bổn – Sở VHTT Quảng Nam , 2001.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét