Sách Nho gia có viết: “食 色 性 者, 飲 食 男 女 人 之 大 欲 存 焉 = Thực sắc
tính giả, ẩm thực nam nữ nhân chi đại dục tồn yên = Chuyện ăn uống, nam nữ là một trong những ham muốn lớn nhất, là bản
tính của con người”. Ẩm thực là biểu hiện của sự tận dụng môi trường tự
nhiên và chịu ảnh hưởng của môi trường xã hội. Ẩm thực là một trong những yếu tố
quan trọng góp phần định hình nền văn hóa của một dân tộc và là tiêu chí để
nhận diện bản sắc văn hóa cũng như đánh giá trình độ phát triển của mỗi dân
tộc. Đó chính là văn hóa ẩm thực. Và, văn hóa ẩm thực Việt Nam khởi nguồn và
hòa trong dòng chảy văn hóa Việt Nam và từ lâu đã được đặt thành vấn đề học
thuật[1].
Đặc biệt, trong tình hình đời sống vật chất ngày càng nâng cao và xu thế giao
lưu hội nhập toàn cầu như ngày nay, văn hóa ẩm thực Việt Nam càng được chú ý
sưu tầm, bảo tồn, nghiên cứu, khai thác (tiêu biểu nhất là trong lĩnh vực dịch
vụ ẩm thực hay thương mại du lịch)[2].
Văn hóa ẩm thực đất Quảng
là một nét trong tổng thể của văn hóa ẩm thực Việt Nam . Văn hóa ẩm thực đất Quảng được
hình thành bởi cư dân bản địa và in dấu ấn của văn hóa ẩm thực người Việt khi
những lưu dân trên con đường Nam tiến đã mang theo. Đồng thời văn hóa ẩm thực
đất Quảng còn tiếp biến văn hóa ẩm thực nước ngoài trong suốt một thời gian dài
giao lưu quốc tế. Do vậy văn hóa ẩm thực đất Quảng có những nét chung với văn
hóa ẩm thực Việt Nam
và cũng có những nét riêng độc đáo, đặc sắc.
Ẩm thực gắn liền với lịch
sử hình thành loài người. Cho nên ẩm thực cũng có lịch sử hình thành và phát
triển lâu đời. Tương tự, ẩm thực đất Quảng được phản ánh trong kho tàng truyền
miệng và thư tịch thành văn với các khoảng thời gian gần xa, cổ kim khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ lượm nhặt và giới thiệu tản mạn về những ghi
chép ẩm thực đất Quảng trong một số thư tịch xưa. Ở đây, chúng tôi mới chỉ dừng
lại khảo sát đối với 3 tài liệu Ô châu
cận lục, Phủ biên tạp lục, Đại Nam nhất thống chí. Vì thế bài viết nặng
tính trích dẫn, song giúp cho mọi người có thêm một góc nhìn về ẩm thực đất
Quảng trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
1. Về nền tảng ẩm thực đất Quảng
Khi bàn đến ẩm thực hay
văn hóa ẩm thực của một địa phương hay của một dân tộc người ta không thể không
chú ý đến hệ nền tảng ẩm thực tương ứng của nó. Đó chính là nền tảng địa lý tự
nhiên, kinh tế chính trị, văn hóa xã hội… Một số thư tịch xưa đều cho thấy đất
Quảng có nền tảng ẩm thực rất vững chắc và phong phú.
Quảng Nam
nguyên thuộc cựu sơn hà
Hai câu thơ trên trong
sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn
có ý ca ngợi đối với vùng đất xứ Quảng. Ngoài ra, sách này còn chép: “Thuận Hóa
không có nhiều của cải, đều lấy ở Quảng Nam ,
ví xứ Quảng Nam
là đất phì nhiêu nhất thiên hạ. Người Thăng Hoa, Điện Bàn biết dệt vải lụa vóc
đoạn lĩnh là, hoa màu khéo đẹp chẳng kém Quảng Đông, ruộng đồng rộng rãi, gạo
lúa tốt đẹp, trầm hương, tốc hương, sừng tê, ngà voi, vàng bạc, đồi mồi, trai
ốc, bông, sáp, đường, mật, dầu sơn, cau, hồ tiêu, cá muối, gỗ lạt, đều sản xuất
ở đấy. Ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Gia Định thì thóc gạo không xiết kể, khách
Bắc buôn bán quen khen bao không ngớt. Các xứ Hòn Lãnh, Thu Bồn, Phường Tây
thuộc về hai phủ Thăng, Điện sản voi, như trâu ngựa, nhà dân đều có chăn nuôi.
Quy Nhơn và Quảng Ngãi cũng có. Các xứ Cò Đen, Kẻ Dã phủ Quy Nhơn thì sản xuất
ngựa, ngựa sinh ở trong hang núi thành đàn hàng trăm hàng nghìn con, có con cao
tới 2 thước rưỡi và 3 thước trở lên. Người địa phương tập dạy cho thồ chở hàng
hóa sang phủ Phú Yên. Cho đến đàn bà buôn bán đi chợ hay đi xa cũng cưỡi ngựa
là thường.” [4]
Đất Quảng từ thời trước
đã là vùng đất có nhiều lúa gạo. Điều này được thể hiện trong Ô châu cận lục: “Đất đai liền với phương
nam, cương giới ở ngoài châu Ô. Nhiều thóc giàu có, đạp lúa dùng trâu, xe tiện
vận chuyển đường bộ, thuyền tiện đi lại dưới sông. Mạc Xuyên vườn trồng lắm sa
nhân.” [5]
Hoặc “Còn từ Quảng Nam về
thì các hàng không món gì không có, các nước phiên không kịp được. Phàm hóa vật
sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và
dinh Nha Trang, đường thủy đường bộ, đi thuyền đi ngựa, đều hội tập ở phố Hội
An, vì thế người khách phương Bắc đều đến tụ tập ở đấy để mua về nước. Trước
đây hàng hóa nhiều lắm, dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc không hết được
(…) Tục ở Quảng Nam gọi 100 cân là 1 tạ, cau thì 3 quan 1 tạ, hồ tiêu thì 12
quan 1 tạ, đậu khấu 5 quan, tô mộc (gỗ vang) 6 quan, hạt sa nhân 12 quan, thảo
quả 10 quan, ô mộc (gỗ mun) 6 quan, hồng mộc 1 quan, hoa lê mộc (gỗ trắc) 1
quan 2 tiền, tê giác 500 quan, yến sào 50 quan, gân hươu 15 quan, vây cá 40
quan, tôm khô 6 quan, rau biển 6 quan, ốc hương 12 quan, đồi mồi 180 quan, ngà
voi 40 quan, ba la ma 12 quan, đường phèn 4 quan, đường trắng 2 quan, còn các
thứ hoạt thạch, sắt, phấn kẽm, hải sâm và mấy trăm vị thuốc nam không thể kể
xiết. Đến như kỳ nam hương thì 120 quan 1 lạng, vàng thì 180 quan 1 hốt, tơ lụa
thì 3 quan 5 tiền 1 tấm. Còn nhục quế, trầm hương, trân châu rất tốt, giá cao
hạ nhiều ít không nhất định.”[6]
Xứ Quảng không chỉ đất
đai “phì nhiêu nhất thiên hạ” (chữ dùng của Lê Quý Đôn), lương thực “nhiều thóc
giàu có” (chữ dùng của Dương Văn An) mà còn có rất nhiều chợ quán - vừa là
trung tâm mậu dịch vừa là yếu tố nền tảng trong ẩm thực. Theo Đại Nam nhất thống chí, chúng tôi thấy
có đến 33 chợ: Chợ Hội An, chợ Thanh Chiêm, chợ Vĩnh Điện, chợ Xuân Đài, chợ
Cẩm Lũ, chợ An Phú Tây, chợ Phong Thử, chợ Trà Nha, chợ Đông Ba, chợ Bình Long,
chợ Câu Nhi, chợ Hải Châu, chợ Phù Nam, chợ An Thái, chợ Hà Điền, chợ Ái Nghĩa,
chợ Phiếm Ái, chợ Cẩm Lệ, chợ Phượng Châu, chợ Thi Lai, chợ Trà Nhiêu, chợ La
Đáp, chợ Bàn Thạch, chợ Thu Bồn, chợ Phúc Sơn, chợ Tân Yên, chợ Bình Sơn, chợ
Hà Lam, chợ Việt An, chợ Chiên Đàn, chợ Khánh Thọ, chợ Tam Kỳ, chợ Thanh Khê [7].
Và, “đàn bà buôn bán đi chợ (…) cũng cưỡi ngựa là thường” như ở trên đã trích
dẫn.
2. Về cơ cấu ẩm thực đất Quảng
Từ nền tảng nói trên,
chúng ta có thể hình dung sự đa dạng, phong phú của ẩm thực đất Quảng. Song, 3
tài liệu này cũng chỉ giới thiệu sơ lược một vài thứ trong cơ cấu của ẩm thực
đất Quảng. Dưới đây là một số tư liệu mà chúng tôi đã tìm thấy.
2.1. Thức ăn
+ Thức ăn có nguồn gốc
thực vật
- Lúa gạo: Lúa: có hai
loại, tẻ và nếp, các huyện sản xuất ít lúa, hàng năm thường nhờ ở gạo Gia Định [8].
- Rau củ quả:
Nam trân: tục gọi là quả
lòn bon, đầu đời Minh Mệnh ban cho tên là Nam trân, nguồn Ô Da và nguồn Thu Bồn
đều có, tháng 8, tháng 9 quả chín, sắc trắng, vỏ mỏng, vị ngọt và thơm, có lệ
thượng tiến để dùng vào việc tế tự. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình tượng vào
Nhân đỉnh [9].
Đây là một điều rất đáng tự hào của vùng đất xứ Quảng.
Xoài: chữ Hán là yêm la,
lại có tên là đại mông, có lệ thượng tiến [10].
Các loại chuối đều có cả,
tên gọi đều khác với bốn trấn: chuối bụt gọi là chuối nanh lợn, rất ngọt và
thơm; chuối hột gọi là chuối sứ; có thứ gọi là chuối bà hương, giống chuối
tiêu, vị hơi chua; có thứ gọi là chuối thanh tiêu…[11]
+ Thức ăn có nguồn gốc
động vật:
- Thủy hải sản:
Cá trôi: hoàn ngư, sống ở
các khe, hàng năm nước lũ mùa thu, nước xuống đến đâu cá theo đến đấy, người ta
chài được có hàng ngàn[12].
Cá gáy: lý ngư, sông ngòi
các nơi đều có, nước lũ mùa thu, người ta chài lưới được nhiều[13].
Cá vảnh: vịnh ngư, sản ở
vũng Trà Sơn, sắc trắng, làm mắm rất ngon, có lệ thượng tiến[14].
Cua đá: sản ở ruộng bùn
xã Hóa Khê trang tây, huyện Hòa Vang, người phải khơi xuống mấy thước mới lấy
được, có công dụng chữa chứng đau mắt[15].
Hàu: Con hàu sản sinh ở
cửa biển Hải Vân [16].
- Thịt gia cầm gia súc:
Chim mía: giá tước, hằng
năm tháng 3 lúa chín, giống chim này đậu từng đàn trên cây mía, ăn thóc, người
địa phương nhân đêm chăng lưới bắt được nhiều, vị rất thơm và ngon[17].
Chim vàng anh: hoang anh,
các huyện đều có [18].
Chim nhung: tần cát liễu,
ven núi đều có [19].
Đặc biệt, ở vùng biển đất
Quảng còn có món Yến sào, là một trong số món ăn bát trân quý hiếm. Yến sào:
sản ở đảo Đại Chiêm (cù lao Chàm), có yến hộ để đi lấy, đồng niên phải nộp 80
lạng [20].
Ngoài ra có món côn trùng
cũng hết sức độc đáo và được ghi vào Đại Nam
nhất thống chí. Đó là chá thiền tử: sản ở nguồn Cu Đê, huyện Hòa Vang, tức
là con ve ve, sau khi lột xác rất béo, xào ăn vị ngọt và thơm [21].
+ Thức ăn có nguồn gốc
khoáng vật:
Muối: sản ở hai huyện Hòa
Vang và Lễ Dương, có thuế, mỗi phương nộp thay bằng tiền là 3 tiền [22].
+ Một số thực liệu làm
gia vị hoặc làm thuốc
Quế: có thuế, nguồn Thu
Bồn huyện Quế Sơn mỗi năm nộp một thanh quế vào hạng thượng thượng, nặng 8
lạng. Nguồn Chiên Đàn thuộc huyện Hà Đông mỗi năm phải nộp 3 thanh quế thượng
thượng hạng [23].
Đường cát: sản ở huyện
Diên Phước, có hộ chuyên nghiệp; lại có hạng đường phèn, đường hoa mơ, đường
đen, mật thô [24].
Mạch môn đông: mọc nhiều
ở núi huyện Duy Xuyên, người ta đào lấy củ nấu thành cao để chữa bệnh ho [25].
Mật ong: nguồn Chiên Đàn
hằng năm nộp thuế 20 cân, nguồn Ô Da nộp 128 cân [26].
Trong số thức ăn kể trên,
bánh đậu xanh được nhắc đến tương đối sớm và chi tiết, như là một đặc sản của
địa phương. Bánh đậu xanh: sản ở phố Hội An là ngon nhất [27].
2.2. Đồ uống
Chè nam: ngon nhất là chè
nguồn Thu Bồn, huyện Quế Sơn, thứ đến chè huyện Hà Đông [28].
2.3. Đồ hút
Thuốc lá: sản ở Hoa Viên
là tốt nhất, thứ đến thuốc ở Xuân Phương và Cẩm Lệ [29].
2.4. Trầu cau
Ở đất Quảng nguyên liệu
cau thật là phong phú, mọc tự nhiên hoặc được trồng ở nhiều nơi. Nếu như vận
dụng lý luận trong Trầu câu Việt điện thư
vào tình hình thực tiễn ở xứ Quảng thì chúng ta sẽ thấy một sự chiêm
nghiệm/phát hiện thật đặc biệt và đầy triết lý. Lùi về trước đó, Phủ biên tạp lục đã chép: “Ở chân núi Ải
Vân cùng các xứ phường Lạc, phường Giá, phường Rây thuộc Quảng Nam, cau mọc thành
rừng, quả già da sém, người địa phương lấy hạt chứa cao như gò, tàu Bắc mua chở
về Quảng Đông bán ăn thay chè.” [30]
Bên cạnh đó, xứ Quảng
cũng hết sức nổi tiếng về Kỳ nam. Phủ
biên tạp lục ghi chép hết sức tỉ mỉ: “Kỳ nam hương xuất từ đầu núi các xã
thuộc hai phủ Bình Khang và Diên Khánh xứ Quảng Nam là thứ tốt nhất; xuất tự
Phú Yên và Quy Nhơn là thứ hai. Hương ấy là do ở ruột cây gió kết thành. Gió có
ba loại: gió lưỡi trâu thì thành khổ trầm, gió niệt thì thành trầm hương, gió
bầu thì thành kỳ nam hương. Người ta thấy cây già lá vàng mà nhỏ, thân cây
nhiều u bướu, thì biết ngay là có hương, chặt mổ để lấy. Họ Nguyễn trước đặt
đội Am sơn, hằng năm cứ tháng 2 thì đi tìm kiếm, tháng 6 trở về, số được nhiều
ít không nhất định,, lấy sắc sáp trắng là tốt nhất, sắc xanh đầu vịt là thứ
hai, sắc sáp xanh là kém nữa, sắc sắp vàng lại kém nữa, sắc như vằn hổ thì kém
nhất; lấy chát mềm như phấn đông có thể cắt thành miếng là hạng tốt nhất, bền
rắn là hạng xấu. Tục ngữ nói: “nhất bạch, nhị thanh, tam hoàng, tứ hắc”. Muốn
phân biệt trầm hương với kỳ nam thì lấy hình chất khí vị mà phân biêtj. Trầm
hương thì cứng, nặng, ít thơm, sắc nhạt, vị đắng, kỳ nam thì mềm nhẹ, có hơi
dầu, thơm mát, vị gồm đủ cay, chua, ngọt, đắng; đốt trầm hương thì khói khết
xoáy rồi sau mới tan, đốt kỳ nam thì hơi khói lên thẳng mà dài. Trầm hương chỉ
có thể giáng khí. Kỳ nam có thể chữa bệnh trúng phong, đàm suyễn, cấm khẩu mọi
chứng, mài vào nước mà rỏ và đốt khói cho hơi hương vào mũi thì tỉnh lại ngay.
Đau bụng đầy tức thì ngậm là khỏi ngay. Lại có thể trừ được tà khí uế khí, nên
trong chỗ hành dịch hành quân không thể không dùng (…) Trầm hương cay đắng,
tính ôn, các gỗ đều nổi, chỉ tràm hương là chìm, cho nên hay hạ khí mà sa đờm
rãi, hay giáng khí mà cũng hay thăng khí, hương khí vào tì, cho nên hay trị
được các khí mà điều hòa, sắc đen thể thơm, cho nên vào mạch môn hữu thận, ấm
tinh tráng dương, hành khí chứ không thương khí, ôn trung không trợ hỏa, trị
lòng bụng xói đau, cấm khẩu, độc lỵ, uất kết, tà khí, sợ gió lạnh, bệnh tê,
bệnh lị. Sắc đen mà chìm xuống nước là tốt; thơm ngọt thì tính bình, cay thì
nóng.” [31]
3. Dùng gạo để định trong việc lễ và nghĩa vụ
Gạo là thức ăn chính của
con người. Cho nên nó cực kì gần gũi và thường trực trong cuộc sống. Những hoạt
động đóng góp chung của cộng đồng hay trách nhiệm nghĩa vụ của mọi người thường
đều quy ra gạo. Phủ biên tạp lục nhiều
lần có chép tình hình này ở đất Quảng chúng ta. Như:
“Dinh Quảng
Nam cai trưng trường tô ruộng kho Tân An, mỗi năm cứ tháng 3 thì các quan thuộc
có lễ thường tân, cai bạ ký lục mỗi người gạo 8 bao, cau khô 40 vò, rượu và mật
đều 40 chĩnh, thay tiền 24 quan; cai án tri bạ mỗi người gạo 7 bao, tiền 24
quan; câu kê mỗi người gạo 5 bao, tiền 16 quan; cai hợp trở xuống không có mật,
mỗi người gạo 3 bao, tiền 8 quan; thủ hợp mõi người gạo 2 bao, tiền 4 quan, ty
lại mỗi người gạo 3 bao, tiền 6 quan. Một lễ ấy cũng được gạo 182 bao, tiền 462
quan. Đến kỳ tháng 6 lại có lễ thường tân, ký lục gạo 20 bao, cau khô 100 vò,
rượu và mật đều 100 chĩnh, thay tiền 60 quan, hồng hoa 2 bao, thay tiền 10
quan, cộng tiền 70 quan; cai án, tri bạ gạo 14 bao, các lễ thay tiền 58 quan;
tướng thần, ty lại, câu kê đều gạo 10 bao, các lễ thay tiền 33 quan; cai hợp
gạo 6 bao, câu khô và rượu thay tiền 6 quan, ty lại cộng gạo 10 bao, rượu 50
chĩnh, thay tiền 10 quan. Một lễ ấy cũng được gạo 254 bao, tiền 739 quan. Quan
Lại bộ cai trưng cũng có lễ, cau khô, rượu, mật, thay tiền 30 quan.” [32]
“Như năm Kỷ
Sửu, tri phủ Thăng Hoa nộp tiền 1 quan 5 tiền, gạo 15 bát, tri huyện huấn đạo
mỗi người 1 quan 1 tiền, gạo 15 bát, cai phủ 1 quan 7 tiền, gạo 15 bát, ký phủ
1 quan, gạo 15 bát, ký huyện, ký thuộc cai tổng, cai man mỗi người 8 tiền, gạo
mỗi người 12 bát, cai quan, chính ty trưởng, mỗi người 1 quan 3 tiền, gạo 15
bát, ty quan 1 quan 2 tiền, gạo 15 bát, thủ hợp, cai thuộc, mỗi người 9 tiền,
gạo 13 bát, thủ lăng đội trưởng, từ đường thứ đội trưởng, mỗi người 1 quan, gạo
15 bát (…)” [33]
“Lệ thuế
trường thường tân. Chính hộ, hạng quan tráng, mỗi người gạo 7 thưng, hạng quân,
hạng mới về, mỗi người 6 thưng, hạng dân hạng lão mỗi người 5 thưng, hạng bất
cụ, mỗi người 5 thưng, thứ đội trưởng bản phủ và thứ đội trưởng đình việc,
tướng thần cũ và tướng thần đình việc, lĩnh cũ và lính ưu cũ, mỗi người 6
thưng, xã trưởng cũ và xã trưởng đình việc, duyện lại cũ và duyện lại đình
việc, hạng cố hạng nhất, mỗi người 5 thưng, hạng cố hạng nhì mỗi người 4 thưng,
hạng cố hạng ba mỗi người 3 thưng, con cháu quan viên và sinh đồ cũ, mỗi người
5 thưng.” [34]
“Lệ thuế
trường tiết liệu (tết). Chính hộ, hạng quan viên tráng, mỗi người nộp gạo 7
thưng, hạng quân, hạng mới về, mỗi người 6 thưng, hạng cố hạng nhất, mỗi người
5 thưng, hạng cố hạng nhì, mỗi người 4 thưng, hạng cố hạng ba, mỗi người 3
thưng, hạng dân, hạng lão, mỗi người 5 thưng, tướng thần cũ và tướng thần đình
việc, mỗi người 6 thưng, bất cụ, mỗi người 4 thưng, con cháu quan viên, mỗi
người 5 thưng, lĩnh cũ, lính ưu cũ, mỗi người 6 thưng, dân đinh mỗi người 5
thưng, xã trưởng cũ và xã trưởng đình việc, mỗi người 5 thưng, thứ đội trưởng
bản phủ cũ và thứ đội trưởng đình việc, mỗi người 6 thưng. Các hạng gạo lệ nộp
thay mỗi thưng 30 đồng, gạo cước mỗi người 18 đồng, gạo cánh trắng mỗi người
một thưng, tiền gạo cánh 6 đồng.” [35]
[1] Xem thêm Nguyễn Hoàng Thân, Bài giảng Văn hóa ẩm thực Việt Nam , ĐHSP - ĐHĐN, 2007.
[2] Trần Quốc Vượng cho rằng
“(…) có một di sản văn hóa ẩm thực Việt Nam mà thế hệ đương đại chúng ta
cần sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến, phát huy tinh hoa, giữ gìn truyền thống. Tìm
hiểu bản sắc ăn uống Việt Nam
cũng là, cũng góp phần tìm hiểu bản sắc văn hóa đậm đà tính dân tộc Việt Nam , tính dân gian Việt Nam (Văn
hóa Việt Nam
tìm tòi và suy ngẫm, tr.374)
[3] Phủ biên tạp lục,
tr.405
[4] Phủ biên tạp lục,
tr. 433
[5] Ô châu cận lục, tr.48-49
[6] Phủ biên tạp lục, tr.294-295
[7] Cụ thể các chợ như sau:
Chợ Hội An: ở xã Hội An về phía đông huyện Diên Phước
tục gọi phố Hội An, phía nam liền sông cái, trên bờ hai bên phố ngói liên tiếp
chừng 2 dặm, bến sông thuyền ghe tấp nập đi lại như mắc cửi, có nhiều khách
buôn người Thanh trú ngụ. Có 4 bang là Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và Hải
Nam, buôn bán tấp nập, làm nơi đô hội lớn xưa nay. Lại ở phía nam sông là đầm
Trà Nhiêu, chỗ thuyền buôn các nước dừng đậu.
Chợ Thanh Chiêm: ở xã Thanh Chiêm, huyện Diên Phước,
tục gọi chợ Củi.
Chợ Vĩnh Điện: ở xã La Qua về phía nam sông Vĩnh Điện
thuộc huyện Diên Phước, năm Minh Mệnh thứ 14 dời lập tỉnh thành ở đây mới mở
chợ.
Chợ Xuân Đài: ở bãi Xuân Đài, huyện Diên Phước.
Chợ Cẩm Lũ: ở xã Cẩm Lũ, huyện Diên Phước, có tên nữa
là chợ Điện Châu.
Chợ An Phú Tây: ở địa phận huyện Diên Phước có tên nữa
là chợ Điện Châu.
Chợ Phong Thử: ở xã Phong Thử, huyện Diên Phước.
Chợ Trà Nha: ở phía đông huyện Diên Phước, cũng có tên
là chợ Lỗ Hương.
Chợ Đông Ba: ở xã Đông Ba, huyện Diên Phước.
Chợ Bình Long: ở xã Bất Nhị, huyện Diên Phước.
Chợ Câu Nhi: ở xã Câu Nhi, huyện Diên Phước, nay bỏ.
Chợ Hải Châu: ở huyện Hòa Vang, tục gọi chợ Hàn.
Chợ Phù Nam :
ở xã Phù Nam ,
huyện Hòa Vang, tục gọi chợ Phường Lạc.
Chợ An Thái: ở xã An Thái, huyện Hòa Vang.
Chợ Hà Điền: ở xã Hà Điền, huyện Hòa Vang.
Chợ Ái Nghĩa: ở xã Ái Nghĩa, huyện Hòa Vang, gần phía
tây có chợ Phiếm Ái.
Chợ Cẩm Lệ: ở xã Cẩm Lệ, huyện Hòa Vang, có hai đường
rẽ, đường phía đông đến cửa biển Đà Nẵng, đường phía tây đến nguồn Lỗ Đông.
Chợ Phượng Châu: ở phía đông huyện Duy Xuyên, tục gọi
chợ Chùa.
Chợ Thi Lai: ở xã Thi Lai, huyện Duy Xuyên.
Chợ Trà Nhiêu: ở bãi Trà Nhiêu, huyện Duy Xuyên.
Chợ La Đáp: ở huyện Quế Sơn, phía bắc gần sông, thuyền
buôn tụ họp.
Chợ Bàn Thạch: ở xã Bàn Thạch huyện Duy Xuyên.
Chợ Thu Bồn: ở huyện Quế Sơn, tục gọi chợ Phường Tây.
Chợ Phúc Sơn: ở xã Phước Sơn, huyện Quế Sơn.
Chợ Tân Yên: ở huyện Quế Sơn, tục gọi chợ Hoa Viên.
Chợ Bình Sơn: ở huyện Lễ Dương, tục gọi chợ Ma Phụ.
Chợ Hà Lam: ở xã Hà Lam, huyện Lễ Dương.
Chợ Việt An: ở xã Việt An, huyện Lễ Dương.
Chợ Chiên Đàn: ở xã Chiên Đàn, huyện Hà Đông.
Chợ Khánh Thọ: ở xã Khánh Thọ, huyện Hà Đông.
Chợ Tam Kỳ: ở huyện Hà Đông, tục gọi chợ Man.
Chợ Thanh Khê: ở huyện Hòa Vang liên tiếp với quán Hà
Khê, có đường rẽ về phía đông đến sông Đà Nẵng. (Đại Nam
nhất thống chí, tr.439-441)
[8] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[9] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[10] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[11] Phủ biên tạp lục, tr.415
[12] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[13] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[14] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[15] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[16] Ô châu cận lục, tr.33
[17] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[18] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[19] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[20] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[21] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[22] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[23] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[24] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[25] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[26] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[27] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[28] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[29] Đại Nam nhất thống chí, tr.462-467
[30] Phủ biên tạp lục, tr.415
[31] Phủ biên tạp lục, tr. 425-426
[32] Phủ biên tạp lục, tr.433-434
[33] Phủ biên tạp lục, tr. 189
[34] Phủ biên tạp lục, tr. 206-207
[35] Phủ biên tạp lục, tr.207
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét