Thơ ca dân gian mang tính nguyên hợp, hình thành từ trong môi trường
lao động, trong quan hệ xã hội, trong quan niệm tâm linh. Thơ ca dân gian có
nhiều điểm tương đồng với dân ca nên thường thể hiện gắn với âm nhạc và múa dân
gian. Người Chăm cũng có hò hát và múa dân gian. Bởi xét cho cùng thơ là loại hình văn học bao gồm nhiều
thể loại: thơ lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể, hoặc thơ Đường
luật, thơ ngũ ngôn,…; ca là ca lời
thơ thành những làn điệu mang cung bậc khác nhau. Do đó, thơ ca dân gian thường
được diễn xướng trong môi trường dân gian. Vậy, thơ ca dân gian là những bài thơ do quần chúng bình dân sáng tạo nên
và được ca lên bằng những làn điệu với nhiều cung bậc khác nhau, biểu hiện tình
cảm của tầng lớp bình dân. Với cách hiểu này, chúng tôi khảo sát thơ ca dân
gian dưới góc nhìn văn học, phần âm nhạc dân gian, tức phần ca, chúng tôi tách ra khảo sát trong các
làn điệu dân ca ở một phần riêng vào dịp khác. Ví dụ:
Lời thơ dân gian:
-
Trèo lên dốc ngược nhọc nhằn
Mưa
tuôn nắng cháy, vững bền vượt lên.
Lời ca/hò dân gian:
-
Khoan ơ khoan. Khoan hò khoan
Trèo lên/ khoan hò khoan
/dốc ngược/ khoan hò khoan/ nhọc nhằn /khoan hò khoan
Mưa tuôn /khoan hò khoan /nắng cháy /khoan
hò khoan/ vững bền/ khoan hò khoan /vượt lên /khoan hò khoan /là hố.
Hoặc,
lời thơ dân gian (biến thể):
-
Con nghé xe
Mình
chằm ngược cho gắt
Bắt
ngược cho hay
Lên
bằng mà nghỉ con hè ?
Lời
ca dân gian:
- Con nghé xe
Mình chằm ngược cho gắt
Bắt ngược cho hay
Lô lô chằm lô
Lên bằng mà nghỉ con hè
?
Trong bài viết ngắn so
sánh có hay không có sự giao thoa thơ ca dân gian Việt – Chăm này, chúng tôi
chỉ khảo sát phần thơ dân gian, nhằm
tìm hiểu xem thơ dân gian người Chăm có sự tương đồng với thể thơ dân gian của người Việt ?
Lâu nay các nhà nghiên cứu văn hóa đã đưa
ra nghi vấn rằng, liệu chúng ta có giao thoa với văn hoá Chăm trong nghệ thuật
thơ ca dân gian, đặc biệt là trong âm nhạc và thơ lục bát. Trong “Đôi lời mở
đầu” cuộc Hội thảo “Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam bộ”,
GS.TSKH.Tô Ngọc Thanh đã nhắc lại nhận định của cố GS. Trần Quốc Vượng, rằng
“tổ chức lãnh thổ của người Chăm nhìn từ núi xuống là: đền tháp – trung tâm tâm linh; thành quách – trung tâm quyền lực; cảng
thị – trung tâm giao thương. Ông cũng lưu ý rằng tuy có chung một mô hình
tổ chức lãnh thổ nhưng do điều kiện địa lý cụ thể của từng đơn vị xã hội mà ông
gọi là mandala (các tiểu vương quốc)
sẽ có những sắc thái khác nhau. Như vậy, có thể phải xem văn hoá Chăm trên vùng
đất này thông qua những biểu hiện cụ thể của văn hoá từng mandala”.
“Và từ đó tìm hiểu những dáng vẻ, độ nông
sâu khác nhau của mối quan hệ giao lưu văn hoá Chăm – Việt trong khuôn khổ sắc
thái văn hoá từng mandala, tức là
nhìn nhận vấn đề một cách định lượng. Nhờ đó, khắc phục dần lối nói chung chung
rằng ở vùng đất này đã diễn ra sự giao lưu văn hoá…Lâu nay phổ biến một nhận
xét rằng sắc thái âm điệu chơi vơi, man mác của hò mái nhì, hò mái đẩy là kết
quả tiếp biến từ văn hoá âm nhạc Chăm. Tuy nhiên cho đến nay chưa ai chứng minh
được rằng cái sắc thái ấy ảnh hưởng cụ thể từ thang âm nào của bài nào, thể
loại nào trong âm nhạc cổ truyền Chăm”[[1]].
Với cách hiểu như vậy, loại hình thơ ca dân gian, trong đó thể loại thơ lục bát
của người Việt có ảnh hưởng từ người Chăm và ngược lại người Chăm có mượn loại
thể này ?.
Nhiều ý kiến cho rằng thể thơ lục bát của
người Việt có ảnh hưởng thơ lục bát người Chăm. Trong bài viết đăng trên ấn
phẩm Diệu Âm [[2]], tác giả Võ Long Tê có
bài “Quan điểm lịch sử và thẩm mỹ về thể
thơ lục bát" đặt vấn đề, rằng: thể lục bát có phải là một thể thơ tiêu
biểu cho thi pháp Việt Nam hay không? Và bài viết tìm về nguồn gốc thể lục bát.
“Các học giả không đồng ý kiến về nguồn gốc thể lục bát. Có người chủ trương
thể lục bát xuất xứ từ thi pháp Trung Hoa, có người nhận xét đó là một thể thơ chung
cho nhiều dân tộc ở Đông Nam Á, nhưng phần nhiều đều quả quyết đó là một thành
tích sáng tạo của dân tộc Việt”. Và bài viết cho rằng những người chủ trương
thể thơ lục bát là một thi điệu Trung Hoa chưa từng nêu ra một thi phẩm nào của
Trung Hoa làm bằng chứng mà chỉ viện dẫn mấy câu trong Kinh dịch và Tống sử [[3]].
Có ý kiến cho rằng câu trong Kinh dịch gượng ép mà thành thể lục bát “theo lối
cú điệu xưa nó tách rời ra thành từng câu chứ không đọc liền một hơi như lối
đọc lục bát [[4]].
Người Trung Hoa lấy làm ngạc nhiên trước
thể thơ lục bát của Việt Nam ,
điều này đã được Nguyễn Huy Ánh viết trong tập Nhật trình Bắc sứ bằng tiếng Hán. Theo lời Phạm Đình Toái trong bài
tựa sách dịch thiên Nguyệt Lãnh trong
Kinh Lễ nói rằng “người Trung Hoa tới chơi nước ta lấy đọc thì không ai không
khen phục” [[5]]. Như thế, để biết rằng
người Việt đã sáng tạo ra thể thơ lục bát được xem là thể thơ dân tộc thì đã
rõ.
Tuy nhiên khi người Việt miền Trung vào
phương Nam
nắng gió khai mở thêm đất đai, định cư lập nghiệp lâu dài, liệu rằng loại thơ
lục bát thể hiện trong ca dao có ảnh hưởng sang người Chăm, hay người Chăm đã
giao thoa với người Việt thể loại thơ này? Đây là vấn đề nhiều nhà nghiên cứu
đã nêu ra! Thể thơ lục bát và thi pháp người Việt, người Chăm, người Thái Lan ở
vùng Đông Nam Á có gặp nhau để giao thoa không?
Người Việt đã sáng tạo ra thể thơ lục bát
như đã chứng minh ở trên, tuy nhiên cũng cần xem xét trong phạm vi vùng Đông
Nam Á với văn hoá Sa Huỳnh, Đông Sơn, Óc Eo, có ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa
và Ấn Độ, câu thơ lục bát của người Việt giao thoa thế nào trong bối cảnh Đông
Nam Á. Ngoài người Việt thì người Chăm, người Thái họ cũng dùng thể thơ lục
bát. Nghiêm Thẩm trong Tạp chí nguyệt san Quê
Hương [[6]] có bài: Sự tồn tại của bản chất Anh-đô-nê-diêng trong
nền văn hoá Việt Nam, viết rằng các nhà sử học Thái Lan cho rằng họ cũng có
thể thơ lục bát. Và cũng trong bài viết này về thơ lục bát của người Chăm,
Nghiêm Thẩm cho rằng “Nếu ta nghiên cứu về văn chương Chàm, ta thấy người Chàm
rất ưa dùng thể lục bát. Nhưng trong lục bát Chàm, chữ cuối câu sáu vần với chữ
thứ tư câu tám. Nhưng hiện nay văn chương Chàm chưa được khảo cứu tường tận
nên ta không biết rõ là người Chàm lấy thể thơ lục bát của người Việt Nam hay
là người Việt Nam đã lấy thơ của người Chàm”. Vấn đề sự giao thoa, ảnh hưởng
thể thơ lục bát Việt – Chăm hay Chăm – Việt, nhiều nhà nghiên cứu văn hoá, ngôn
ngữ, văn học có đưa ra nhận định ngược chiều nhau, tuy nhiên căn cứ vào các
công trình biên khảo của các học giả Nghiêm Thẩm, Nguyễn Khắc Ngữ, Phạm Duy, Vũ
Lang,…và sự so sánh đối chiếu của chúng tôi, cho biết, câu thơ lục bát của
người Chăm gieo vần tại chữ thứ tư
trong câu tám.
- Thây thâu ca
chang câu ca,
Dịch:
-Nỗi lòng ai biết cho không,
Rau mọc giữa dòng
trong dạ ai hay?
Trong
cuốn “Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam”
xuất bản năm 1972 tại Sài Gòn, Nhạc sỹ Phạm Duy cho rằng người Chăm cũng có thể
thơ lục bát và được lồng các làn điệu vào để trở thành dân ca và Phạm Duy đã
công bố một bài dân ca theo thể thơ lục bát người Chăm, phương thức gieo vần ở
chữ thứ sáu câu lục vần với chữ thứ tư câu bát, giống với cách gieo vần của
người Việt cổ [[8]]
- Thây mai mưng đêh thay ô,
Drơh phik kaau lô
yom tha ưrang,
Chek tian mưng asit dih đang
Dịch:
- Ai đến từ đàng kia, ai đó,
Đẹp lòng ta hình như một
người.
Mà ta đã mến yêu từ khi còn
ẵm ngửa,
Nay đã thuộc về người khác rồi, tiếc quá trời ơi !
Ngôn
ngữ Chăm là loại hình ngôn ngữ đa âm tiết, khác với đơn âm của người Việt nên ca
dao Chăm khác với ca dao Việt, tuy nhiên, thảng trong lời ăn tiếng nói dân gian
vẫn có trường hợp giao thoa, tương đồng nhau trong cách gieo vần giữa cặp lục
bát Chăm với cặp lục bát Việt:
Cặp lục bát Chăm:
- Mai baik dei brei pha crong
Tangin dei tapong
kauk luk mưnhưk
Bbuk
ai tarung yuw harơk
Tangin
dei pơk
nhjwơh yuw tathi
(Về
đi em cho đùi gác
Bàn
tay em vuốt, đầu xức dầu thơm
Tóc
anh bù rối như rơm
Cặp
lục bát Việt:
-
Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày
sau nó lớn nó quện nhau đi
Tò
vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện
ơi nhện hỡi, nhện đi đường nào ?
Đặc
điểm khác nhau giữa câu ca dao lục bát người Việt với người Chăm về phân phối
vần, trong ariya Chăm, vần trắc (t) tồn tại khá bình đẳng với vần bằng (b), sự
phân phối chen kẽ nhau, nghĩa là một câu hiệp vần bằng, liền sau đó là câu hiệp
vần trắc. Đối chiếu bài ca dao Việt « Tò vò » nêu trên với bài ca dao Chăm sau
đây, ta thấy có sự tương đồng về phương thức hiệp vần.
-Limưn
tơl Ba Lai Bal Huh
Bal giơh ginuh
bhap illimo
Bal đwa danuh khak bilo
Xanak ginrơh ralo halei jang o bboh.
Gần
đây, trong Tạp chí Champaka, số 1 năm 1999, có in bài Trường ca Chăm Bà-ni
(Ariya Cam Bini) của nhà nghiên cứu văn hoá Chăm, ông Fatimah là thành viên của
chương trình Thế giới Mã Lai – Đông Dương, giới thiệu 118 câu thơ lục bát, gieo
vần giống như cách gieo vần câu thơ lục bát của người Việt xưa [[10]].
Còn trong trường ca Hbia tà lúi – kalipu
của người Chăm ở Phú Yên, chúng tôi thấy trong trường ca/ariya này có số câu
dài ngắn khác nhau (câu dài nhất 23 từ, sau khi đã chuyển ngữ sang tiếng Việt),
theo đó, lại không tìm thấy ảnh hưởng câu ca dao lục bát của người Việt. [[11]] Tuy nhiên, nếu chỉ đếm
số lượng tiếng câu lục và câu bát trong ariya Chăm (sau khi chuyển ngữ sang
tiếng Việt, nghĩa là đã trở thành ca dao dịch) để so sánh, đối chiếu sự giao
thoa Việt – Chăm, thì không rút ra được sự giao thoa hay tương đồng. Mặt khác
cũng cần xét đến, rằng tiếng Chăm là ngôn ngữ đa âm tiết, lại cho thấy khác với
lục bát Việt. Điều này xét câu ca dao Chăm trong hai trường hợp như các nhà
nghiên cứu đã thực hiện để có sự so sánh:
+ Bằng cách đếm âm tiết,
không tùy thuộc vào lượng chữ, ta thấy câu lục sáu âm tiết, câu bát tám âm tiết
(trong câu, có một hình vị, chứa hai âm tiết). Ví dụ:
Câu ca dao:
-Cam saung Bini
ke kan
1 2
3-4 5 6
Mu
sa karan ia sa bilauk
1 2 3-4
5 6 7-8
Câu
châm ngôn Pauh Catwai
- Tabur xanưng twei
đơy
1-2 3-4 5
6
Wak
Pauh Catwai twei
bauh akhar
1 2 3-4 5
6 7-8
Cách
đếm âm tiết này theo lời ăn tiếng nói Chăm có mặt trong thể loại trữ tình như
Ariya Cam Bini, Ariya Xah Pakei, hoặc những câu châm ngôn như Pauh Catwai, Muk
Thruh Palei và có mặt trong hầu hết các sáng tác dân gian người Chăm.
+
Bằng cách đếm theo lượng trọng âm, ta thấy có hiện tượng đọc lướt, nén chữ hay
nuốt âm là một trong những thuộc tính của ngôn ngữ đa âm tiết. Do đó trong các
sử thi như Akayet Dewa Mưno, Akayet Um Mưrup, Akayet Inra Patra hay các bài ca
mang tính triết lý, thể loại ariya chỉ được tính theo lượng trọng âm của từ đa
âm tiết, một số hư từ cũng bị lượt bớt, không tính từng âm tiết như trường hợp
đầu. Ví dụ :
-
Akayet si panưh
twơr tabiak
1-2 3
4 5 6
Ppadong nưm
ka ratwơk Rija
Dewa Mưno
1 2 3
4 5 6
7-8
(Akayet Dewa Mưno)
-Glơng anak
linhaiy likuk jang o hu
1
0-2 0-3 0-4
5 0 6
Bhian drap
ngap ralo pioh
hapak khing ka
thraung
1
2 3 0-4
5 0-6 7
0 8
(Ariya Glơng Anak)
Như thế, cho dù dùng
phương pháp đếm âm tiết hay đếm trọng âm trong câu ca dao lục bát, ta vẫn thấy
có sự tương đồng, giao thoa nhau giữa câu ca dao người Việt và người Chăm.
Trong bài viết: «Bước Tiến trong nghiên cứu văn minh Chăm –
văn học Chăm » của Nguyễn Đức Hiệp (Sydney Australia) khi bàn về Văn học dân gian Chăm của Inrasara,
trong tác phẩm Văn học Chăm – khái luận, phát
biểu rằng: thể thơ Ariya/trường ca tương tự như thơ lục bát Việt Nam và
Inrasara cho thấy qua đối chiếu và phân tích sơ bộ, lục bát Việt và ariya Chăm có rất nhiều điểm giống nhau.
Trong đó, phần giống nhất là nhịp điệu của câu thơ. Thể thơ ariya thể hiện
trong các tác phẩm trữ tình của người Chăm có phần tương tự như các tác phẩm
Bích Câu kỳ ngộ, Lục Vân Tiên hay Truyện Kiều của người Việt.[[12]]
[1] GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt
Nam trong Đôi lời nói đầu của tác
phẩm Văn hoá biển miền Trung và văn hoá
biển Tây Nam bộ, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Viện nghiên cứu văn hoá,
Sở Văn hoá Thông tin Quảng Ngãi, Hội Văn học nghệ thuật Kiên Giang, NXB.Từ điển
bách khoa, Hn, 2008. Tr.13.
[2] Diệu Âm, Đặc san
của chùa Quán Thế Âm – Ngũ Hành Sơn, NXB. Đà Nẵng 4-2011.
[3] Trong Kinh dịch: Lục
tam: hành chương khả trinh/Hoặc tòng vương sự vô thành hữu chung. (Hào sáu
ba: ngậm vẻ sáng đẹp có thể chính bền/Kẻ theo việc nhà vua, không nên công cũng
được trọn vẹn. Theo Bửu Cầm: Ca dao, nền
tảng văn học dân tộc. Nội san Viện khảo cố, số 2, Sài Gòn, tháng 3-1956,
bản in roneo. Trong Tống sử: Đế vị Thái
Xác hữu công/Sử chi tông sự Triết tông miếu đường. (Vua bảo rằng Thái Xác
có công/. Cho được thờ chung ở miếu vua Triết tông. Theo Lam Giang: Khảo luận luật thơ. Tân Việt, Sài Gòn,
1958.
[4] Thử tìm cái đẹp trong
ca dao, Sơn Tùng, Tiểu thuyết Thứ bảy, loại mới, số 10, Hà Nội, 4.6.1949.
[5] Đại Nam quốc sử diễn
ca, Hoàng Xuân Hãn, Trường Thi xuất bản lần ba, Sài Gòn 1956.
[6] Tạp chí Quê Hương,
Sài Gòn, tháng 6-1962.
[7] Ảnh hưởng văn hoá Chàm qua Việt Nam, in trong Văn hoá nguyệt
san, số 25, Sài Gòn tháng 10-1957, dịch theo thể lục bát: Nỗi lòng ai biết cho đây/Rau
kia dưới nước dạ này thấu chăng.
[8] Nguồn gốc dân tộc Việt
Nam, Đào Duy Anh, NXB Thế giới ở trang 22-23, cho rằng: người Việt xưa có
lẽ là một chi nhánh của chủng tộc Indonesien, sống rải rác thời thái cổ thuộc vùng Đông Nam Á,
từ miền A Xam phía bắc Ấn Độ, qua miền Hoa Nam đến quần đảo Nam Dương, hiện nay
vẫn còn di tích nền văn hoá cổ.
[9] Nhạc
Chàm còn lại, Phạm Duy trong Tạp chí nguyệt san Vạn Hạnh, số 4, Sài Gòn
tháng 9-1965, tr. 74, 79. Dịch: Kìa ai đi đến từ xa/Thật giống lòng ta như thể
một người/Thầm yêu từ thuở ấy thời/Cho kẻ khác rồi tiếc quá trời ơi! Dẫn Theo
Diệu Âm. In lại trong cuốn Đặc khảo về
dân nhạc Việt Nam ,
Sài Gòn, 1972.
[10] Xem: Xứ Chăm và văn
hoá Chăm Việt, bài viết của Trần Thục Hiền.
[11] Xem: Trường ca Hbia tà
lúi – kalipu, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Ka Sô Liễng, sưu tầm, biên
dịch, giới thiệu, NXB. Văn hóa dân tộc, 2011, phần dịch sang tiếng Việt từ
trang 419 – 740.
[12] Đến nay mà nói, chưa có công trình nghiên
cứu văn học nào khảo sát chứng minh và đưa ra đầy đủ sự giao thoa qua lại giữa
thể thơ lục bát người Việt với người Chăm một cách cụ thể và rõ ràng.
1 nhận xét:
Bài viết thú vị quá!
Ai biết thông tin liên lạc, địa chỉ email của tác giả bài viết cho mình xin với.
Vui lòng phản hồi cho Jalau Anu7k qua email bbttagalau@gmail.com
Đa tạ
Đăng nhận xét