Vũ Xuân Triệu
Mấy năm gần đây,
đưa văn hóa dân gian vào trường học trở thành chủ trương lớn được sự đồng thuận
của ngành giáo dục và toàn xã hội. Song để hoạt động này thực sự mang lại hiệu
quả là không hề dễ. Muốn văn hóa dân gian đến với nhà trường dễ dàng hơn, hiệu
quả hơn thiết nghĩ chúng ta cần biên soạn tài liệu phục vụ giảng dạy mang tính "khoa
giáo", cách tổ chức hoạt động "dạy - học" phù hợp và đội ngũ
giảng dạy giàu tâm huyết.
***
Văn hóa dân gian từ lâu vẫn được xem là
bản sắc văn hóa dân tộc. Chủ trương đưa văn hóa dân gian vào trường học được
xem như một giải pháp vừa nhằm bảo tồn, phát huy bản sắc ấy vừa góp phần giáo
dục toàn diện học sinh. Thực tiễn cho thấy, việc văn hóa dân gian xuất hiện
trong các nhà trường được học sinh đón nhận một cách khá thích thú. Tuy vậy vấn đề đang được đặt ra hiện nay là có nên "chuẩn
hóa" các giá trị văn hóa dân gian để đưa vào giảng dạy hay là để tự nó
phát triển tự nhiên vì bản chất của văn hóa dân gian là linh hoạt và sáng tạo?
Thông qua hoạt động
thực tế tại nhà trường, chúng tôi cho rằng cần biên soạn tài liệu giảng dạy văn
hóa dân gian một cách đồng nhất. Việc biên soạn tài liệu được thực hiện thông
qua sưu tầm, giới thiệu về các hoạt động văn hóa dân gian, mô phỏng, hướng dẫn
cách thức chơi, cách hát, cách tổ chức... một cách quy mô, khoa giáo.
Thực tế hiện nay ở các
địa phương hầu hết đều có các tài liệu khảo sát đặc trưng văn hóa dân gian.
Song, chúng lại chưa mang tính hệ thống, liên kết, đôi chỗ còn trùng lặp. Mục
tiêu của các tài liệu này cũng chưa thực sự nhắm vào mục đích giảng dạy mà đơn
thuần là sưu tầm, giới thiệu văn hóa địa phương. Bởi vậy việc sắp xếp, biên
soạn tài liệu phục vụ giảng dạy văn hóa dân gian là cần thiết. Chúng tôi cho
rằng biên soạn cần được phân chia theo các nhóm như:
- Ngữ văn dân gian bao gồm: tự sự (thần
thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, ngụ ngôn, vè, sử thi, truyện thơ…;
trữ tình (ca dao, dân ca); thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian.
- Nghệ thuật dân gian bao gồm: nghệ
thuật tạo hình (kiến trúc, hội họa, trang trí,…); nghệ thuật biểu diễn (âm
nhạc, múa, sân khấu,…).
- Tri thức dân gian bao gồm: tri thức
về môi trường tự nhiên (địa lý, thời tiết, khí hậu…); tri thức về con người
(bản thân), y học; tri thức ứng xử xã hội (ứng xử cá nhân và ứng xử cộng đồng);
tri thức sản xuất (kỹ thuật và công cụ sản xuất).
- Tín ngưỡng, phong tục và lễ hội dân gian.
- Trò chơi dân gian.
Đối với nghiên cứu, theo quan điểm của
GS.TS. Ngô Đức Thịnh (Viện văn hóa dân gian) cách phân chia này không thể hiện
được tính "nguyên hợp" vốn có của văn hóa dân gian. Song theo chúng
tôi trong giảng dạy đây lại là sự lựa chọn hợp lí. Qua sự phân chia, người dạy,
người học có được sự nhận diện đối tượng tương đối dễ dàng. Ngoài ra nó còn mang lại cho chúng ta nhiều thuận lợi khi thực
hiện chủ trương đưa văn hóa dân gian vào trường học.
Trước nhất là sự chọn lọc có chủ
đích. Không phải
hoạt động nào chúng ta cũng có thể đưa vào nhà trường. Việc biên soạn tài liệu
giảng dạy giúp chúng ta chọn lọc những hoạt động mang tính giáo dục, an toàn,
vệ sinh... Ví dụ, trò chơi leo cột mỡ mang đậm tính dân gian nhưng không phù
hợp với trường học, nhất là ở cấp tiểu học. Trò chơi đánh khăng, chọi cù (có
nơi gọi là chọi gụ) không an toàn vì dễ gây chấn thương... cần được loại bỏ.
Những giá trị đang có nguy cơ bị thất truyền như: hát xẩm, múa rối...cần được
quan tâm gây dựng, giới thiệu sâu kĩ hơn. Qua sự chọn lọc, sắp xếp chúng ta
cũng dễ dàng nhận thấy "sức nặng" của văn hóa dân gian đến các mặt
của đời sống con người từ văn hóa tư tưởng, lao động sản xuât, đến ngay cả cách
ứng xử (hay kỹ năng sống) của con người trong xã hội...
Thứ
đến, tài liệu sẽ là cầu nối xóa đi lằn ranh của không gian địa lí và thời gian
lịch sử. Lâu nay do khoảng cách lịch sử khá lớn, nên từ bản thân các thầy cô
đến các em học sinh chưa thực sự hiểu hết được cách thức chơi, ý nghĩa của các
hoạt động. Hoặc do sự khác biệt về địa lí nên giáo viên, học sinh chỉ tổ chức
những hoạt động ở địa phương mình mà không quan tâm đến những nơi khác. Vì lẽ
đó xây dựng nguồn tài liệu giảng dạy sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc truyền
bá văn hóa dân gian. Tất cả mọi người ai cũng có thể chủ động tiếp cận được
cách chơi, cách biểu diễn... Đồng thời khi được tập hợp một cách đủ đầy, văn
hóa dân gian của vùng miền, địa phương này sẽ đến được với giáo viên, học sinh ở
vùng miền, địa phương khác. Hay nói cách khác đây chính là sự "kết
thông" văn hóa dân gian.
Cuối
cùng, chúng tôi nhấn mạnh rằng việc xây dựng ngân hàng văn hóa dân gian làm tài
liệu giảng dạy không phải là sự "chuẩn hóa" như chúng ta nghĩ. Bởi lẽ, tài liệu biên soạn ra chỉ mang tính
chất định hướng hoạt động. Phần còn lại, đội ngũ
giáo viên tại các nhà trường căn cứ vào mục tiêu, đối tượng, đặc trưng văn hóa
vùng miền, điều kiện cơ sở vật chất để triển khai. Điều này giúp các đơn vị
trường học luôn chủ động trong việc đổi mới các hoạt động không lo sợ bị lặp
lại nhàm chán, từ đây tạo nên thế chủ động trong tiếp nhận, kích thích được sự
sáng tạo của cả thầy lẫn trò; đảm bảo tính linh hoạt của văn hóa dân gian.
2. Tổ chức hoạt động dạy học
Văn hóa dân gian là hệ văn hóa ẩn chứa
nhiều giá trị. Nhìn lại nguồn cội sản sinh văn hóa dân gian, chúng ta nhận thấy
chức năng, mục đích ra đời văn hóa dân gian chính là giải trí; lưu giữ và
truyền những tri thức dân gian; gửi gắm thế giới tâm hồn con người. Những giá trị
văn hóa ấy được thoát thai từ lòng dân Việt với tính chất mộc mạc, giản dị đã
mang đến sự gần gũi và phổ dụng cho nhiều người. Tuy vậy khi đưa vào trường
học, mục tiêu của chúng ta không nhất thiết là phải khám phá hết các giá trị ấy
mà chỉ cần "gieo" vào tâm hồn các em được tình yêu với văn hóa dân
gian. Điều này là một yêu cầu không hề giản đơn đối với cả hệ thống giáo dục và
xã hội. Song thiết nghĩ khó không phải là không làm được, vấn đề là chúng ta
cần có phương pháp tổ chức hoạt động "dạy - học" linh hoạt, mang tính
chất đặc thù.
Đầu tiên, chúng ta cần tính toán lại
cách dạy - học văn hóa dân gian theo kiểu "tích hợp" (lồng ghép).
Cách làm này ta cho là dễ, tuy nhiên nếu không khéo sẽ trở nên nhàm chán đối
với học sinh, nhất là khi chương trình đào tạo đang được coi là "quá
tải". Bấy lâu nay, chúng ta vẫn quan niệm
rằng chỉ có một số bộ môn "đặc thù" mới có thể thực hiện việc lồng
ghép văn hóa dân gian vào dạy và học như: âm nhạc với những làn điệu dân ca...;
thể dục với các trò chơi dân gian...; ngữ văn với các câu truyện cổ tích, câu
đố hay ca dao, tục ngữ... Tuy nhiên thực chất, tất cả các môn học đều có thể sử
dụng "chất" dân gian ở những mức độ khác nhau vào công tác dạy và
học. "Chất" dân gian ở đây có thể khai thác từ những gì đã có sẵn
(văn hóa dân gian cổ). Ví như, ngữ văn với vốn ca dao, dân ca, truyện cổ; thể
dục với các trò chơi dân gian; âm nhạc với các làn điệu dân ca... Ngoài ra,
giáo viên cũng có thể sử dụng "chất liệu dân gian mới" (vì thực chất
văn hóa dân gian vẫn đang vận động phát triển) vào môn học của mình phụ trách.
Ví như, toán học với "bài ca cos-sin"; hóa học với "bài ca hóa
trị"...
Đưa văn hóa dân gian
vào các môn học là giải pháp góp phần không nhỏ trong việc tạo nên sự hứng thú
cho học sinh. Nếu làm tốt việc này, trong cùng một lúc chúng ta đã khai thác
được nhiều giá trị của văn hóa dân gian, đó là: thực hiện chức năng giải trí
ngay trên lớp học, khắc sâu kiến thức từ đó tiết học nhẹ nhàng hơn, cảm giác
quá tải không còn thường trực trong tâm trí của cả thầy và trò. Hơn thế, nó còn
tạo nên sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống môn học. Từ đây văn hóa dân gian có
thể len sâu vào tâm hồn con trẻ, trở thành chất xúc tác trong mỗi bài dạy của
thầy cô.
Tiếp đến là cách tổ chức
"lớp học" gắn liền với các hoạt động văn hóa cộng đồng. Văn hóa dân
gian là một thực thể sống, nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn với sinh hoạt
văn hóa cộng đồng của quần chúng lao động. Vì vậy, khi nhận thức, lý giải các
hiện tượng văn hóa dân gian phải gắn liền với môi trường sinh hoạt văn hóa của
nó, tức là các sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Việc các lễ hội có sự tham gia
của đội "học trò lễ", đội cờ người, đội tinh kỳ... là những học sinh
đó quả thực là sự trải nghiệm thú vị. Khi các em được hòa mình với những sinh
hoạt cụ thể gắn liền với trách nhiệm và cả sự tự hào (vì các đội học trò lễ hay
cờ người trong các lễ hội được tuyển chọn rất kỹ) ắt hẵn tình yêu văn hóa dân
gian trong các em sẽ dần lớn thêm. Không chỉ vậy, cách "học" này còn
là bài toán giải quyết vấn đề tìm hiểu văn hóa dân gian trong sự "nguyên
hợp" như chúng tôi đã nhắc đến ở trên. Bởi lẽ "đối với văn hóa dân
gian thực ra các loại hình tách bạch ra, nhưng vẫn phải nương tựa vào nhau. Thơ
dân gian tồn tại, phát triển và lưu truyền bằng hát đối đáp. Nếu bỏ nhạc thì
múa khó thành. Mất sự tích văn học, mất làn điệu, mất múa thì chèo cũng mất.
Tranh Đông Hồ cũng phải đi liền với hội tết..."[2] Mặt khác khi trực tiếp
tham gia vào các lễ hội văn hóa dân gian các em sẽ thấy được hoạt động sáng tạo
và đời sống của nhân dân lao động. Ngoài ra đây còn là điều kiện để các em
"kiểm chứng" những tri thức văn hóa dân gian mà mình đã biết.
Cuối cùng, chúng ta cần quan tâm đến
mối quan hệ giữa tâm lí lứa tuổi sư phạm và việc chọn lựa các hoạt động văn hóa
dân gian khi giảng dạy. Vì "mỗi một dạng hoạt động có vai trò, tác dụng
khác nhau đối với sự phát triển nhân cách ở từng lứa tuổi. Mỗi giai đoạn phát
triển có một dạng hoạt động vừa sức và đặc trưng của nó" [1, tr.8]. Trên
cơ sở phân tích tâm lí học lứa tuổi sư phạm có thể dẫn ra đây cách chọn lựa các
hoạt động văn hóa dân gian theo giai đoạn tuổi học sinh.
- Thời kỳ đầu tuổi học hay nhi đồng (từ
6 đến 11, 12 tuổi). Theo các chuyên gia tâm lí, đây là giai đoạn thuận lợi cho
trẻ phát triển ngôn ngữ và nhận biết thế giới khách quan. Chúng ta chỉ nên tổ
chức các hoạt động đơn giản mang tính chất vui tươi, giúp các em làm quen, nhận
diện sự vật, mở rộng vốn từ ngữ như: chi chi chành chành, nu na nu nống, xỉa cá
mè, rồng rắn lên mây, hỏi tuổi xứ Quảng…
- Lứa tuổi từ 6 đến 10 tuổi, rất cần
những hoạt động gắn với những kỷ xảo vận động. Chúng ta có thể cho trẻ tham gia
vào các hoạt động khó hơn, phức tạp hơn
như: kéo co, cướp cờ, kể chuyện diễn cảm...
- Với lứa tuổi từ 15 đến 18, có thể cho
học sinh tham gia vào những hoạt động có quy mô với những trò chơi mang tính tư
duy, và khả năng thể hiện như: cờ gánh; hát các làn điệu dân ca có tính nghệ
thuật cao như: hát xẩm, ca trù, hò Quảng, bài chòi, diễn các tích trò dân
gian... Cũng theo tâm lí lứa tuổi sư phạm trẻ "thường hành động vì muốn
thỏa mãn một điều gì đó và "động cơ" đó thay đổi..."[1, tr.19]
Vậy nên trong quá trình tổ chức các hoạt động không nên chỉ đơn thuần là sự một
chiều (giáo viên tổ chức, học sinh tiếp nhận), chúng ta hãy trao cơ hội cho các
em tự chọn, tự đứng ra tổ chức, điều khiển các hoạt động theo ý tưởng của mình.
Đấy cũng chính là động lực để các em tự tìm đến và hiểu văn hóa dân gian nhiều
hơn, sâu hơn.
Tóm lại, nắm bắt tâm lí lứa tuổi học
sinh để triển khai các hoạt động phù hợp chính là chìa khóa kích thích được
hứng thú của các em trong quá trình tham gia. Một khi đã tạo được sự hứng thú,
tâm trạng vui vẻ nảy sinh trong quá trình tham gia các hoạt động hợp với lứa
tuổi, dần dà nếu được lặp đi lại thường xuyên sẽ chuyển thành tình yêu đối với
văn hóa dân gian bền vững.
3. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ
Cũng
giống như bất cứ lĩnh vực nào, muốn thành công cần xây dựng được đội ngũ con
người đáp ứng kịp thời yêu cầu, tính chất công việc. Công tác bồi dưỡng
chuyên môn cho đội ngũ giáo viên từ xưa đến nay vẫn được xem là chiến lược quan
trọng, có tính chất quyết định chất lượng giáo dục và dạy học trong nhà trường.
Bởi lẽ lao động sư phạm là lao động sáng tạo, đòi hỏi người giáo viên phải có
kiến thức sâu và toàn diện, không ngừng học tập trau dồi kiến thức và nghiệp vụ...
Đối với việc giảng dạy văn hóa dân gian trong nhà trường lại càng phức tạp đòi
hỏi phải xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ một cách kỹ lưỡng. Khi đưa văn hóa dân
gian vào giảng dạy, hơn ai hết người thầy phải có vốn hiểu biết, có tình cảm
đặc biệt với văn hóa dân gian. Vì có yêu, có nhiệt huyết với văn hóa dân gian
thì giáo viên mới có thể dễ dàng "mang" nó đến với học sinh một cách
dễ dàng.
Để xây dựng đội ngũ nhà giáo có am hiểu, có
tình yêu, có khả năng vận dụng văn hóa dân gian vào giảng dạy có lẽ cần phải
xuất phát gốc rễ từ các trường Sư phạm. Nên chăng ở các trường Sư phạm, sinh
viên các bộ môn cần được trang bị chuyên
đề giảng dạy văn hóa dân gian trong trường học. Nội dung chuyên đề cần
chuyển tải được hai nội dung cơ bản.
Thứ nhất là kiến thức văn hóa dân gian ở
các bộ môn. Ví như: Ngữ văn là các kiến thức về văn học, ngôn ngữ dân gian...;
Âm nhạc - mỹ thuật là dân ca, diễn xướng, điêu khắc, hội họa dân gian...; Giáo
dục công dân là kỹ năng ứng xử...; Kỹ thuật (nông nghiệp) là kinh nghiệm sản
xuất... Vì lẽ, trước khi muốn vận dụng văn hóa dân gian vào giảng dạy ở các bộ
môn, người thầy phải thực sự am hiểu về nó.
Thứ hai là phương pháp truyền đạt (dạy
học). Đây là nội dung quan trọng quyết định sự thành bại của việc thực hiện chủ
trương đưa văn hóa dân gian vào trường học. Trường Sư phạm cần giúp sinh viên
hiểu và vận dụng được cách tổ chức dạy học mang tính đặc trưng riêng khi truyền
dạy văn hóa dân gian (như chúng tôi đã trình bày ở mục 2).
Bên cạnh công tác xây dựng đội ngũ giáo
viên các môn văn hóa, trong quá trình thực hiện chủ trương, chúng ta cũng nên
chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn - Hội - Đội. Họ chính là những người
trực tiếp tổ chức các hoạt động mang tính chất bổ trợ cho công tác giảng dạy
của giáo viên. Tuy nhiên bấy lâu những người làm công tác này thường tổ chức
các hoạt động theo sở trường, sự hiểu biết và khả năng riêng của từng cá nhân.
***
Trước xu thế hội nhập văn hóa, những giá trị tinh thần mang
đặc trưng dân tộc như văn hóa dân gian đang "bị làm mờ" bởi những
luồng văn hóa mới du nhập từ nước ngoài. Hơn thế, điều đáng báo động là, tính
chất của những "cái mới" ấy chẳng những không phản ánh được nét đặc
trưng văn hóa của người Việt mà ít nhiều lại hủy hoại tinh thần, tư tưởng thế
hệ trẻ. Chủ trương đưa văn hóa dân gian vào trường học của Bộ giáo dục và đào
tạo là việc làm đúng đắn góp phần bảo tồn phát huy vốn văn hóa dân tộc. Những
đề xuất của chúng tôi trên đây xuất phát từ thực tế triển khai các hoạt động
giảng dạy văn hóa dân gian tại cơ sở. Tuy rằng còn khiêm tốn, song điều cốt tử
là mong được góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đưa văn hóa dân gian vào
trường học, khơi dậy tình yêu văn hóa dân tộc ở thế hệ trẻ.
Tài liệu tham khảo
[1] Lê
Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (1999), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, Nxb ĐHQG Hà Nội.
[2] Ngô
Đức Thịnh, Văn hóa dân gian và văn hóa
dân tộc, nguồn http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/678-ngo-duc-thinh-van-hoa-dan-gian-va-van-hoa-dan-toc.html,
cập nhật ngày 20/7/2008.
[3] Vũ Xuân Triệu (2013), "Chuẩn hóa văn hóa dân gian
đưa vào giảng dạy", Báo giáo dục
thời đại, số ra ngày 9/7/2013.
[1] Xem
thêm: Vũ Xuân Triệu, "Chuẩn hóa văn hóa dân gian đưa vào giảng dạy", Báo giáo dục thời đại, số ra ngày
9/7/2013. Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3062/201307/chuan-hoa-gia-tri-van-hoa-dan-gian-de-dua-vao-giang-day-1970724/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét