Hoài Nhân
Thành ngữ là một bộ
phận của văn học truyền miệng, trong cách nói hay lối viết văn, từ xưa đến nay,
người Việt Nam thường có thói quen sử dụng, vận dụng thành ngữ. Chính vì vậy mà
trải qua một thời gian dài, vốn thành ngữ của dân tộc ngày một tăng lên về số
lượng, đồng thời được giữ gìn, truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi câu
thành ngữ là một lời khuyên, một kinh nghiệm, vốn sống… được ông cha ta tổng
kết, đúc rút ngắn gọn lại có vần, điệu nên rất dễ nhớ, dễ thuộc. Nhưng để vận
dụng được những câu thành ngữ một cách chính xác, đúng lúc, đúng nơi, cần phải
hiểu nghĩa bao gồm cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của các câu thành ngữ…
Gần đây, trong khẩu
ngữ Tiếng Việt xuất hiện một biến thể của thành ngữ “Lá lành đùm lá rách”. Đó là: “Lá
lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Cách nói này quen thuộc
đến nỗi người ta không ngần ngại dùng nó trong mọi phong cách ngôn ngữ như: Báo
chí, chính luận, ngôn ngữ văn chương (nhiều nhất là trong các báo cáo (văn bản)
của các Hội chữ thập đỏ, Hội từ thiện, Các cơ sở từ thiện nhân đạo của các tôn
giáo,..)
Chưa nói đến nguồn gốc
của cách dùng này là gì, chúng ta cũng có thể nhận ra rằng: Dùng thành ngữ theo
kiểu như thế là hoàn toàn sai, thậm chí đã bóp méo ý nghĩa vốn rất biểu trưng,
rất khái quát của nó.
Tiếng Việt của chúng
ta rất trong sáng và vô cùng phong phú. Một trong những giá trị làm cho ngôn
ngữ ta trong sáng chính là ở sự giàu có của vốn thành ngữ. Mỗi thành ngữ đều có
ý nghĩa riêng, có cách sử dụng riêng; nhưng tất cả đều giống nhau ở đặc trưng
khái quát, biểu trưng về ý nghĩa và mang đậm nét bản sắc văn hoá Việt. Một điểm
đặc biệt nữa là trong thành ngữ, các từ tham gia cấu thành đều mang ý nghĩa
khái quát cao.
Vì vậy, hiểu một thành
ngữ không nên chỉ căn cứ vào nghĩa đen của từng từ trong đó. Chẳng hạn như
thành ngữ “mẹ tròn con vuông” không
thể hiểu là “mẹ thì hình tròn, con thì
hình vuông”… Thành ngữ là một cụm từ cố định có sức biểu trưng hoá cao,
không thể tuỳ tiện sử dụng và tạo biến thể một cách vô nguyên tắc.
Thành ngữ “Lá lành đùm lá rách” thường được dùng
với nghĩa: Sự đùm bọc, yêu thương hỗ trợ lẫn nhau của các thành viên trong cộng
đồng. Người giàu có, khoẻ mạnh giúp người nghèo khó, yếu đuối; thậm chí người
bình thường cũng có thể giúp người hoạn nạn hay sa cơ lỡ bước. Nói một cách
khác, ý nghĩa của thành ngữ này biểu thị một thái độ sống có trách nhiệm của
con người trong xã hội. Đó là một nét đẹp truyền thống của người Việt Nam mà
không phải dân tộc nào cũng có.
Khi dùng thành ngữ
này, người dùng không quá chú ý đến nghĩa của “lành”, của “rách” mà chú
ý đến mối quan hệ giữa hai trạng thái đối lập “lành - rách” đã được khái quát hoá. Nhờ đó, cách hiểu thành ngữ
được mở rộng ra, đi xa hơn cách hiểu cụ thể chỉ bó hẹp trong nghĩa đen của nó
là: (cái) lá lành đùm vào (cái) lá rách. Cặp “lành – rách” có thể là:
- “Giàu – nghèo”
- “Khoẻ - yếu”
- “Có khả năng – không có khả năng”
- “Thuận lợi – không thuận lợi”
- “Yên ổn – éo le - gặp trắc trở”…
Trong cuộc sống xã hội vẫn còn nhiều người lâm vào hoàn cảnh khó khăn, hoạn
nạn, hay những tình huống trắc trở. Thành ngữ này vẫn còn được sử dụng nhiều.
Nó luôn mang ý nghĩa tích cực; lúc thì như một lời khuyên, một lời nhắc nhở;
cũng có lúc lại như lời ca ngợi một nét đẹp trong truyền thống của dân tộc. Đó
là tấm lòng nhân ái vô bờ của người Việt Nam với nhau và với cả nhân dân lao
động trên thế giới.
Tuy vậy, do quá lạm dụng ý nghĩa tốt đẹp của nó mà người dùng quên đi rằng
mình đang dùng một thành ngữ mang tính khái quát hết sức sâu sắc. Nếu như trong
thành ngữ gốc “Lá lành đùm lá rách”
thì “Lành – rách” (như đã nói) mang
nghĩa khái quát; thì trong “lá rách ít
đùm lá rách nhiều”, cặp “lành – rách”
lại bị cụ thể hoá đến mức tối đa. Có lẽ người dùng đã suy diễn theo kiểu: “lá rách ít vẫn còn tốt chán, vẫn đủ sức đùm
lá rách nhiều”. Trong khi đó, người ta đã quên rằng trong thực tế (là dựa
vào nghĩa đen) thì lá đã rách dù ít cũng khó có thể dùng để đùm được!
Tóm lại, trong mọi trường hợp, khi cần nói đến những điều đã nêu trên, ta
chỉ cần dùng một thành ngữ “Lá lành đùm
lá rách” là đủ, mà không cần kéo dài thêm “… lá rách ít đùm lá rách
nhiều”. Bản thân
thành ngữ gốc đã hết sức cô đọng, súc tích. Nó cũng thật dễ hiểu, dễ sử dụng.
Việc thêm vế sau vào thành ngữ để tạo ra một biến thể miễn cưỡng, đặc biệt khi
thêm “ít” và “nhiều” vào sau “rách”
chỉ làm cho nghĩa của thành ngữ trở nên rối rắm; thậm chí làm mất đi tính trong
sáng của một thành ngữ vốn đã được thử thách trong thực hành Tiếng Việt.
Thông qua việc phân tích câu thành ngữ quen
thuộc trên, chúng ta có thể khẳng định: các thành ngữ, đặc biệt là thành ngữ
nói về quan hệ xã hội của con người đều có một khả năng chuyển nghĩa rất cao.
Hiện tượng này không chỉ làm cho phong phú thêm giá trị ngữ nghĩa của các thành
ngữ mà còn làm giàu thêm vốn ngôn ngữ của
văn hóa dân tộc Việt Nam .
Tuy nhiên, có tạo ra được điều đó hay không, còn phụ thuộc vào cách khai thác
và sử dụng chúng ở mỗi chúng ta.
Có thể nói, trong hệ thống ngôn ngữ,
mỗi đơn vị ở các cấp độ khác nhau đều có những giá trị khác nhau, trong đó có
giá trị tu từ của thành ngữ (nhìn từ góc độ phong cách học), chúng hoạt động
trong giao tiếp với các chức năng khác. Trong quá trình hoạt động, mỗi đơn vị
đều bộc lộ các phẩm chất và các sắc thái riêng. Khả năng tạo ra các sắc thái
riêng của mỗi đơn vị ngôn ngữ chính là nét đặc trưng về giá trị phong cách của
nó, phong cách học tiếng Việt hiện đại./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét