Tần Hoài Dạ Vũ
Văn hóa biển của người xứ
Quảng có lẽ đã được phôi thai từ những truyền thuyết, mà “Sự tích Ngũ Hành Sơn”
là một truyền thuyết tiêu biểu. Chuyện kể rằng: Ngày xưa, khi nơi đây còn là
một miền hoang địa, những bãi cát ngày đêm bốc hơi nóng hừng hực. Hơi mát của
gió biển không thổi tan hết được chướng khí tụ mù mịt trên một vùng đất chưa hề
có con người.
Ngày
kia, có một lão ngư dân bị đắm thuyền từ phương Bắc trôi dạt
tới. Ông lão tự đi đốn cây, cắt tranh, dựng một túp lều con và sống thui thủi
một mình trên bãi biển vắng.
Một
buổi sáng ấm áp, sóng gió bỗng cuộn lên. Lúc sau, có một con
Rồng Vàng rẽ sóng tiến vào bờ. Rồng Vàng quằn quại hồi lâu, cát bụi bốc mù
mịt, mây đen che kín bầu trời. Trong khoảng đất trời u ám ấy, bỗng có một tiếng
thét lớn, rồi một làn ánh sáng lạ xuất hiện. Rồng Vàng đẻ ra một quả trứng rất
lớn. Đẻ xong, Rồng lập tức quay về biển đông.
Rùa Vàng hiện lên, bới
cát ủ kín trứng rồng. Rùa Vàng gọi lão ngư dân sống trên bãi vắng
tới, và dạy rằng:
- Ta là thần Kim Quy. Ta muốn nhà người phải tận
lực bảo vệ giọt máu này của Long quân!
Lão ngư dân hỏi:
- Già
này sức cùng lực tận thì làm sao mà bảo vệ được?
Rùa Vàng bèn tháo chiếc móng chân của mình trao
cho ông già và dặn rằng:
- Ta
giao cho ngươi khí giới của ta, những khi thật cần thiết, ngươi hãy đặt
ngay nó vào tai, ta sẽ có cách giúp!
Từ
đó, lão ngư dân hết lòng hết dạ bảo vệ trứng rồng, cúc cung tận
tụy, không hề dám lơ là nửa buổi. Trứng rồng cứ theo ngày tháng
lớn lên, dầu lão ngư dân có che đậy bằng cây lá, có không ngừng gánh cát đổ lên
phủ kín trứng, cũng chẳng thấm vào đâu. Giữa bãi cát trắng, trứng cứ không
ngừng cao lên, to ra, màu vỏ trứng lấp lánh năm sắc, trông tựa như một hòn ngọc
khổng lồ, phản chiếu ánh dương quang.
Ngày
kia, có một đạo quân xa lạ tràn đến, đốt cháy túp lều
nhỏ bé của lão ngư dân. Gươm đao tua tủa, chúng hăm hở kéo
tới bên cạnh trứng rồng, tưởng chừng chỉ trong phút chốc chúng
có thể ùa vào đập tan cái trứng khổng lồ kia. Nhờ có móng
rùa của thần Kim Quy, ông cụ đã kịp thời bốc cát ném ra chung quanh. Lạ thay,
những nắm cát nhỏ bé ấy, trong giây phút, cháy lên thành một vòng rào lửa, vây
hãm bọn giặc hung ác. Chẳng còn tên nào sống sót để quay về.
Sau
đúng một ngàn ngày đêm, trứng rồng bỗng nứt ra. Một cô gái xinh đẹp tựa như
tiên nga ra đời. Nàng lớn nhanh như thổi. Giữa một mảnh vỏ trứng, có một chiếc
hang như được dành sẵn cho nàng. Trong chiếc hang thoáng mát kia, có hai cái vú
đá không ngừng tuôn ra một dòng sữa trắng để nuôi nàng. Còn muôn chim thì đua
nhau đến nhảy nhót hót ca giúp vui cho nàng, và tha bông vải đến dệt áo cho
nàng mặc, tha sợi đay về dệt thảm cho nàng trải. Nàng Tiên ngày một lớn, ngày
một đẹp khác thường.
Một
hôm, nàng nhặt những viên đá nhỏ có năm sắc lấp lánh vương vãi bên chân nàng
ngồi, ném ra chung quanh. Lạ thay, mỗi viên sỏi ngũ sắc rơi xuống đều mọc lên
một loài hoa lạ, có năm cánh. Về sau, những người dân từ phía Bắc đến, đã dùng
loại hoa Tứ quý này để chữa bệnh thời khí và bệnh sốt rét.
Vào một đêm trăng
sáng, Nàng Tiên xinh đẹp tuyệt trần kia được Rùa Vàng hiện lên đưa đi mất.
Còn
lão ngư dân, trước khi trả lại móng rùa cho thần Kim Quy,
đã được mách bảo cho tìm thấy một chiếc hang xinh đẹp, thoáng mát trong
lòng một mảnh vỏ trứng rồng, trên nóc hang có ánh mặt trời soi dọi, trước hang
có cây cỏ xanh tốt mọc đầy. Lão ngư dân dọn vào ở hẳn trong lòng hang. Về sau,
chẳng ai còn biết tin gì về ông lão.
Năm
mảnh trứng rồng nứt ra cứ lớn mãi, lớn mãi lên, thành năm ngọn núi. Ngày
nay, năm cụm núi ấy vẫn còn, và do đá núi có năm sắc lấp lánh nên người ta gọi
là núi Ngũ Hành. Người dân vùng đất Tiên Sa này còn cho rằng khi Rồng Vàng ở
cử, trong cơn quằn quại đã vô tình làm lở đất thành dòng sông Cẩm Lệ và sông
Hàn ngày nay.(Văn nghệ Dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng, Tập 2, trang 58-60) (1).
Từ truyền thuyết
này, có hai vấn đề để suy nghĩ.
Thứ
nhất, là sự sáng tạo của dân gian xứ Quảng.
Về “Sự tích núi Ngũ Hành”, trong “Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam ” (Tập
1, trang 298), Nguyễn Đổng Chi có ghi chép một chuyện có nội dung khác
với truyền thuyết chúng tôi sưu tầm được, như đã kể trên. Nguyễn Đổng Chi cũng
cho biết, còn có một dị bản nữa, cho rằng núi Ngũ Hành là năm ngón tay của Đức
Phật đè lên mình Đại thánh. Năm ngón tay đó làm nên năm hòn núi Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ. Truyền thuyết này rõ ràng là có ảnh hưởng từ “Tây
du ký” của Trung Quốc. Còn với truyền thuyết của dân gian xứ Quảng, thì không
thể phủ nhận tính sáng tạo trong cả nội dung và hình tượng văn học.
Thứ
hai, với truyền thuyết “Sự tích Ngũ Hành Sơn”, nàng thiếu nữ xinh đẹp như
cô tiên tượng trưng cho những con người sinh ra trên vùng đất này, và đó chính
là con đẻ của Rồng Vàng, đến từ biển cả. Phải chăng, đây cũng là hình tượng
phát sinh từ truyền thuyết về nguồn gốc của dân tộc Việt: con Rồng. Kể cả cái
móng của thần Kim Quy. Và hình ảnh người thiếu nữ lớn nhanh như thổi rất giống
với sự lớn mạnh của Thánh Gióng, kể cả việc bay về trời. Như vậy, rõ ràng dân
gian xứ Quảng vừa dựa vào truyền thống văn hóa dân tộc, vừa có sự sáng tạo hình
tượng mới, phù hợp với những con người đi mở đất, vốn giàu tinh thần khám phá.
Và quan trọng hơn, hình tượng văn học ấy tạo nên tâm thế mới, gắn với biển, của
những người con xứ Quảng.
Đến hiện thực lịch sử.
Chúng
ta biết rằng, là một dân tộc sở hữu đến hơn ba ngàn cây số bờ biển, nhưng người
Việt lại không sở hữu một năng lực đi biển xuất chúng, hay nói chính xác hơn
chúng ta không có truyền thống chinh phục biển.
Nhìn
lại suốt chiều dài lịch sử, dễ dàng nhận ra rằng, người Việt
là những nông dân lúa nước, chỉ chuyên tâm sống trên đất liền và luôn sợ
biển, hoàn toàn không có những cuộc chinh phục biển một cách quy mô. Chính vì
thế, ông cha chúng ta không có những tàu thuyền lớn; cũng không hề làm chủ
những kinh nghiệm hàng hải đáng kể, chứ chưa nói là lâu đời.
Nhưng
lịch sử bao giờ cũng có những bước đi lạ lùng của nó.
Không sống với biển, không làm chủ mặt biển, nhưng dân tộc Việt lại
là những người mở mang bờ cõi nhờ biển.
Từ
sau bước chân vu quy của công chúa Huyền Trân, cuộc Nam tiến bắt đầu hình
thành, tuy mỗi thời với mức độ rầm rộ hay nhỏ lẻ khác nhau,
và cũng có thể kéo dài trong suốt nhiều năm tháng hay có khi chỉ vài đợt
ngắn hạn rồi lại ngưng. Người Việt tiến về phương Nam bằng đường bộ, thông qua
các cuộc chinh phạt, mở rộng công cuộc khẩn hoang bằng chính sách lập thôn ấp,
làng xã mới, tận dụng lực lượng tù binh, những kẻ tội đồ và cả những nông dân
“không có mảnh đất cắm dùi” ở phía Bắc, những người nuôi khát vọng tìm con
đường sống bằng những cuộc di cư. Nhưng đáng nói hơn là người Việt đã tiến về
phương Nam
bằng đường biển.
Với
những ghe thuyền nhỏ, đi theo từng nhóm nhỏ, những kẻ phiêu bạt
vì ước mong tạo dựng được cơ ngơi trên vùng đất mới, đã men theo
bờ biển, tiến dần về phương Nam . Đi theo lối này
vừa dễ thực hiện, vừa bảo toàn được sinh mạng, vì lỡ có gặp gió bão
thì cũng dễ tấp ngay được vào đất liền. Bằng con đường men theo bờ biển
đó, khi gặp các cửa sông, những người đi tìm đất sống liền lần theo đó mà
đi sâu vào nội địa. Rồi khi gặp được những địa điểm thuận lợi cho cuộc sống,
nhận thấy vùng đất mới có thể sinh cơ lập nghiệp được, họ dừng lại khẩn
hoang, sinh sống và tạo dựng nên làng xã. Các gia phả của rất nhiều dòng họ từ
phía Nam
đèo Hải Vân trở vào đều có ghi nhận điều đó. Ta hãy nhớ lại chuyến đi của
Nguyễn Hoàng. Tuy trên danh nghĩa là vào trấn thủ đất Thuận Hóa, nhưng kỳ thực
đó là cuộc trốn chạy nhằm thoát khỏi sự sát hại của Trịnh Kiểm, mà Nguyễn Hoàng
đã được cậu ruột là Thái phó Nguyễn Ủ Dĩ (có sách viết là Kỷ) mách bảo, và cũng
được Trạng Trình chỉ đường bằng tám chữ: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung
thân”. Đầu năm 1558, như sách Đại Nam
thực lục tiền biên ghi, bất chấp thời tiết giá rét, Nguyễn Hoàng dẫn
con em và những người thân tín giong buồm đi ngay, từ cửa bể Nam
Định. Chúng ta phải hiểu là, Nguyễn Hoàng sở dĩ chọn đi đường biển vì sợ
đi đường bộ dài ngày, dễ bị Trịnh Kiểm thay đổi ý kiến, cho quân đuổi
theo bắt lại. Vài ngày sau, Nguyễn Hoàng cập thuyền vào xứ Sa Khư (bãi Cồn Cỏ)
ở làng Ái Tử, huyện Vũ Xương, nay thuộc huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Điềm
“Trời cho nước”, mà Thái phó Nguyễn Ủ Dĩ suy nghiệm qua việc nhân dân Ái Tử
dâng Nguyễn Hoàng 7 vò nước, khi ông cùng tùy tùng vừa từ cửa Việt tiến
vào, có thể chỉ là một thứ “tâm lý chiến” nhằm chiêu dụ dân chúng vốn hay
tin vào mệnh trời, mà cũng để trấn an chính những người ra đi tìm đất
sống. Vô tình, chuyến đi của Nguyễn Hoàng trở thành “kiểu mẫu” cho những cuộc
di dân về sau, theo đường biển.
Người
Việt, trên đường Nam
tiến, đã dựa vào các dòng sông để lập nghiệp. Đi dần từ cửa sông lên đến thượng
nguồn, các thôn ấp, làng xã lần lượt ra đời. Điều này cũng dễ hiểu, vì phần lớn
các nền văn hóa cổ của nhân loại cũng đều hình thành ở lưu vực các dòng sông
lớn: văn hóa Ai Cập ở lưu vực sông Nile; văn hóa Lưỡng Hà ở lưu vực hai dòng
sông Tigris và Euphrates; văn hóa Ấn Độ ở lưu vực sông Indus; văn hóa Trung Hoa
ở lưu vực sông Hoàngg Hà. Còn văn hóa Hy - La cổ thì ở ven biển Địa Trung Hải.
Xem
thế biển, hay nói đúng hơn là văn hóa sông biển, đã là nguồn gốc hình
thành và phát triển của rất nhiều dân tộc. Có nhà nghiên cứu cho rằng, văn hóa
nước của người Việt Bắc bộ về cơ bản là “văn hóa sông nước; với ứng xử quay
lưng lại biển”. Ven biển Trung bộ với bờ biển lồi ra, nước biển sâu, thuận tiện
cho giao lưu đường biển; vì vậy, cư dân Champa xưa, cũng như cư dân Việt về
sau, đều theo nghề đi biển. Do đó, văn hóa nước miền Trung là “văn hóa biển
cả”. Chỉ khi tới Nam
bộ, văn hóa nước của người Việt mới có đủ cả hai yếu tố “sông nước” và “biển
cả”. Miền Đông Nam
bộ đất cao, bờ biển vẫn lồi ra, nước biển vẫn sâu, văn hóa nước thiên về biển
cả. Miền Tây Nam
bộ là đồng bằng châu thổ sông Mê Kông mênh mông kênh rạch với nước trắng một
màu len lõi khắp nơi, thì văn hóa thiên về sông nước (2).
Như
vậy, tuy người Việt không sống chủ yếu bằng nghề biển, trong
quá khứ không có những đội chiến thuyền, thương thuyền lớn làm
chủ mặt biển, nhưng người Việt, trên con đường mở cõi về phương
Nam, đã biết dựa vào biển. Và trong lịch sử phát triển của dân tộc,
đã từng mở rộng giao lưu, thương mại với thế giới bên ngoài thông qua các hải
cảng. Dưới thời các Chúa Nguyễn, Đàng Trong đã phát triển rực rỡ, mở rộng Tổ
quốc đến tận Châu Đốc, Hà Tiên và các hải đảo Côn Lôn, Phú Quốc, cùng các quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa; mở ra thêm cho đất nước một diện tích lớn bằng một nửa
diện tích quốc thổ. Ngay từ năm 1617, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã viết thư mời
Công ty Đông Ấn của Hà Lan ở Malacca đến Hội An buôn bán. Đến năm 1651, Toàn
quyền Hà Lan ở Batavia muốn giao hảo, buôn bán với xứ Đàng Trong, nên cử sứ giả
Veriegen sang thương nghị và ký hiệp ước thương mại với chúa Nguyễn Phúc Tần.
Công
cuộc giao lưu, hội nhập của các Chúa Nguyễn quả là bài học
về cách ứng xử với biển cho các thế hệ về sau.
Vì nhờ lòng hiếu khách và chính sách ngoại giao, thương mại khôn khéo
ấy mà thương cảng Hội An và toàn bộ xứ Đàng Trong đã một thời phồn thịnh, phát
triển vượt bậc, nhất là bảo vệ được chủ quyền đất nước, trong khi cũng vào thời
điểm lịch sử đó, các nước Philippine, Indonesia, Malaysia, Macau… lần lượt rơi
vào tay bảo hộ hoặc thuộc địa của các thế lực thực dân phương Tây. Chỉ tiếc
rằng, sau đó đất nước ta cũng chịu chung cảnh ngộ, trở thành thuộc địa của
Pháp, do sự hẹp hòi, thiếu hiểu biết của triều đình nhà Nguyễn.
Và hiện thực xã hội.
Văn
hóa nước miền Trung là “Văn hóa biển cả”, như các nhà nghiên cứu đã nhận
định. Điều ấy rõ ràng đã được lịch sử chứng minh. Dẫu đấy có là “Tư duy văn hóa
biển lấy đất liền làm trung tâm để tiếp cận với biển khơi”, như Bùi Văn Tiếng
đã nhận xét (3), thì cũng không thể phủ nhận rằng, đối với người Việt Nam sinh
trưởng ở miền Trung, văn hóa biển vẫn có dấu ấn đậm nét, và vẫn được thể hiện
rõ hơn, bằng chứng là người Quảng Nam - Quảng Ngãi đã từng tham gia “Đội
Hoàng Sa” để bảo vệ biển trời Tổ quốc.
Và
phải chăng, chính vì địa - văn hóa của miền Trung đã thể hiện tinh thần
văn hóa biển cả (đất nhô ra biển, nước biển sâu, nhiều người sống bằng nghề đi
biển), mà ngay từ xưa các đội ghe bầu của người xứ Quảng đã chuyên chở hàng hóa
đi khắp nơi, ra Bắc vào Nam, kể cả sang các cảng biển Đông Nam Á. Cũng phải
chăng, chính với địa - văn hóa ấy, mà tính cách của người miền Trung nói chung,
của người Quảng Nam-Đà Nẵng nói riêng, là luôn cương cường, mạo hiểm, thích
xông pha, khám phá. Trong chiến tranh, đó là tinh thần “đi đầu diệt giặc”,
trong thời bình là hình ảnh của những đội tàu đánh cá xứ Quảng đi khắp các ngư
trường Bắc Nam và ra tận khơi xa.
Còn
hiện thực đời sống hôm nay, thành phố Đà Nẵng đang muốn tiến ra biển
cũng là một minh chứng sống động cho tư duy văn hóa biển; trong đó, khu đô
thị “Vầng trăng khuyết” có thể coi là tiêu biểu. Nhưng đó cũng chỉ mới là cái
nhìn ra biển từ đất liền. Còn mở rộng con đường tiến ra biển, đồng thời với
việc kéo biển lại với mình, kéo thế giới lại với mình trong các lĩnh vực kinh
tế – chính trị và du lịch mới là điều quan trọng, không chỉ có chính quyền mà
mọi người dân Đà Nẵng hiện nay cũng cần phát huy, thực hiện.
Ngày
nay, chúng ta đang tiến ra biển trên con đường hội nhập. Nhưng điều quan trọng
là hòa nhập mà không để hòa tan; trong đó, việc hội nhập văn hóa là quan
trọng nhất, cần thiết nhất, nhưng làm sao để vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân
tộc mới là điều hệ trọng, có tính sống còn. Vì văn hóa là linh hồn của dân tộc.
Và đánh mất văn hóa dân tộc chính là khởi đầu của sự băng hoại, mất gốc, dẫn
đến lệ thuộc. Chúng ta cần hướng ra biển, tiến ra biển, nhưng như đã nói, cũng
cần kéo biển lại với ta, kéo thế giới lại gần ta. Bài học văn hóa biển, cho tới
nay, nhất là trong tình hình hiện nay, vẫn là bài học lớn trong tâm thức hội
nhập của dân tộc ta.
1.
Truyền thuyết “Sự tích Ngũ Hành Sơn”, chúng tôi sưu tầm được
vào năm 1981, ghi chép từ ông Nguyễn Hải ở xã Hòa Hải, và ông Phan Phụng
Nguyên, quê gốc làng Phong Thử, xã Điện Thọ, Điện Bàn, lúc truyền đạt cho chúng
tôi ông đang sống ở Hội An. Chúng ta đều biết, trong việc tìm hiểu văn học
dân gian có 2 công đoạn rõ rệt: sưu tầm và nghiên cứu. Tác phẩm văn học
dân gian là sáng tác của tập thể nhân dân rộng lớn, nhiều đời, nhưng người sưu
tầm đã văn bản hóa tác phẩm ấy và công bố rộng rãi, thì không thể phủ nhận công
lao của họ được. Với những ai chỉ làm việc nghiên cứu từ vốn tư liệu đã được
công bố, thì sự liêm khiết trí năng buộc người nghiên cứu ấy phải ghi rõ xuất
xứ của tư liệu, của ấn bản tham khảo. Không thể nhập nhằng cho rằng tác phẩm
dân gian là của chung, nên cứ ghi chép lại từ công trình sưu tầm của người khác
một cách … vô tư. Trường hợp “Sự tích Ngũ Hành Sơn” nêu trên là một ví dụ cụ
thể: Nhiều năm sau khi cuốn “Văn nghệ dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng”, Tập 2, được
xuất bản vào năm 1984, và tái bản vào đầu năm 1986, một GS ở Hà Nội đã sao chép
nguyên văn, không sai một dấu phẩy, trong một cuốn sách bề thế, mà không hề ghi
rõ xuất xứ. Buồn thay!.
- GS.TSKH
Trần Ngọc Thêm: Văn hóa nước của người Việt (trong cuốn “Văn hóa sông nước
miền Trung”, Nxb Khoa học Xã hội , HN, 2006, tr 425-442.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét