Thứ Hai, 6 tháng 4, 2020

Đà Nẵng-Lịch sử hình thành và phát triển (Phần 2)

VÕ VĂN HÒE
Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Đà Nẵng


III. Thời kỳ thành lập làng xã người Việt
Sau cuộc hôn nhân Huyền Trân Công chúa, điều chắc chắn rằng cư dân người Việt theo đó lần lượt kẻ trước người sau vào phương Nam khai khẩn đất đai và ở lại lâu dài. Căn cứ truyền thuyết trong dân gian và các gia phả ghi chép lại có thể cho rằng điều đó bắt đầu diễn ra càng ngày càng nhiều và người Việt đã quy dân lập ấp, thiết kế làng mạc, xây dựng chính quyền cai quản.
Làng Đà Sơn:
Theo Bản “Đà Sơn, Đà Ly nhị xã Phan tộc phổ chí” và tài liệu tại làng Đà Sơn [1] do hậu duệ họ Phan là Phan Hồng Nguyên viết năm 1996: “Trên bước đường Nam tiến của dân tộc ta diễn ra theo thứ tự thời gian từ khi lập quốc, mười thế kỷ đầu, dân tộc ta định hình tại lưu vực sông Hồng. Lúc bấy giờ đất Quảng Nam thuộc Chiêm Thành. đầu đời vua Trần Nhân Tông, muốn hoà hiếu với Chiêm quốc để làm chỗ dưa ở phương Nam nên gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Trong cuộc hôn nhân này, Chế Mân đưa hai châu Ô và Lý (Địa Lý và Bố Chánh) để làm sính lễ [2].
Công cuộc di dân lập ấp cuat vua Trần diễn ra vào cuối tháng 2 năm 1307, thu nhận hai châu đổi thành Hoá châu và Thuận châu, do Thượng tướng Đoàn Nhữ Hài đến đây thiết lập bộ máy chính quyền Đại Việt. Trong đoàn người Nam tiến này, có vị võ quan được Đoàn Nhữ Hài cử ra để lãnh đạo bộ máy chính quyền quân sự, đó là ông thỉ tổ của tộc Phan, giữ chức chỉ huy sứ phủ Hoá châu. Địa phận của ông từ đèo Hải Vân đến Trà Ngâm. Ông đặt thủ phủ tại xã Đà Sơn, thành lập trên mười xã, chính sách cai trị khoang hoà độ lượng, nghề nông được phát triển mạnh, chăn nuôi và chài lưới. Nhờ đó mà nhân dân được ấm no hạnh phúc. Khi về già giao quyền bính cho con là Phó chúa.
Đầu năm 1368, vua Chiêm cho Mục Đà Na sang đòi đất Hoá châu (Chiêm Động tức Quảng Nam ngày nay), vua Trần cử đại tướng Trần Thế Hưng, Phó tướng là Đỗ Tử Bình đưa quân tiến đánh, nhưng Tỳ tướng Trịnh Đốc Mật làm nội gián nên quân triều đình rơi vào ổ phục kích. Sợ vua Trần bắt tội nên thông đồng với Đỗ Tử Bình làm phản, giết Phó chúa chiếm trại, xưng Hoá Châu chủ. Em của Phó chúa là Phan Công Thiên đem ấn tín chạy ra Thăng Long xin vua Trần cử binh đánh dẹp.
Phan Công Thiên sinh ngày 6 tháng Giêng năm Tân Tỵ (1341), niên hiệu Thiệu Phong năm thứ nhất, đời vua Trần Hiến Tông. Lớn lên theo Phó chúa giữ chức Tham tán quân vụ, luyện tập binh sĩ, dạy dân cày cấy, mở mang các vùng đồng hoang để làm ruộng nước, nhờ vậy mà nhân dân được an cư, lạc nghiệp.
Qua việc điều trần của Hồ Quý Ly về việc lợi hại của biên giới phía Nam, phải có một danh tướng của triều đình mới tin cậy được. Vì vậy vua Trần Nghệ Tông, triệu ông Phan Công Thiên vào triều tường trình tình hình biên giới phía Nam. Ông tỏ ra một danh tướng có tài biện luận khiến vua hài lòng, sắc phong cho ông làm phò mã, gả Công chúa Huy Châu (tức Công chúa Trần Thị Ngọc Lãng) cho ông. Công chúa sanh ngày 10 tháng 3 năm Canh Dần (1350) niên hiệu Thiên Phong năm thứ 12, đời vua Trần Dụ Tông (Bà là em của Công chúa Huy Ninh, vợ Hồ Quý Ly). Vua Trần cần tìm hiểu vị tướng trẻ này nên giữ ông lại kinh đô, sai tướng Ngô Biên dem quân đánh dẹp, nhưng tướng ấy không đánh nổi nên dâng sớ xin viện binh.
Mãi đến đầu năm 1377, vua Trần Duệ Tông, thân chinh đem 12 vạn binh, chia hai ngả thuỷ bộ đi đánh Chiêm Thành. Vua đi đường thuỷ, Hồ Quý Ly và Đỗ Tử Bình đi đường bộ. Trong chuyến đi nay, Phan Công Thiên làm đốc chiến. Trong khi duyệt binh ở Bạch Hạt, Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông phong cho ông Phan Công Thiên chức Đô chỉ huy sùng Kinh lược chiêu dụ xứ trí sứ.
Khi Hồ Quý Ly tiến quân đến phủ Thăng, Hoa thì ông Phan Công Thiên ở lại tổ chức chính quyền phủ Hoá châu, đặt doanh trại, luyện tập binh sĩ, xây dựng thành quách, đắp các luỹ ở nơi xung yếu để bảo vệ cương thổ, mở mang nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp v.v…dựa theo văn hoá Đại VIệt, mời các nhà trí thức có uy tín trong nhân dân để khai hoá cho họ. Cải tổ guồng máy hành chính, đặt các chức quan lại ăn lương theo hộ dân. Ông còn thành lập huyện Đà Bàn (Điện Bàn) gồm có 20 xã từ Hải Vân đến Trà Ngâm.
Ông sinh được 3 người con. Người con trưởng là công tử Phan Công Chánh, đặt thủ phủ tại làng Trà Câu, thứ Công tử Phan Công Nhâm đặt công phủ tại trại Nội Đồng (làng Đà Ly thôn Phong Lệ, nay là khu dân cư Đà Ly, phường Hoà Thọ Đông, quận Cẩm Lệ) và Tiểu thư Phan Thị Đào Hoa.
Lúc vè già, ông dâng sớ xin triều đình ban chức cho hai con và được triều đình chuẩn tấu, nhưng chẳng bao lâu nhà Hồ cướp ngôi, Phan Công Chánh bất bình cáo quan về phụng dưỡng song thân, Phan Công Nhâm giữ chức Đô chỉ huy sứ. Trong khi nhà Trần mất ngôi, tôn thất có hơn hai tăm người vào lánh nạn được Phan Công Thiên đặc biệt quan tâm, chu cấp nhà cửa, lương thực và tạo điều kiện để họ được an cư lạc nghiệp.
Ông mất vào ngày 14 tháng 4 năm Quý Mùi (1401), thọ 63 tuổi, niên hiệu Khai Đại năm thứ nhất, triều vua Hồ Hán Thương.Ngày mùng 7 năm Giáp Thân (1402) bà Công chúa Trần Thị Ngọc Lãng mất, thọ 52 tuổi, niên hiệu Khai Đại năm thứ hai, mộ bà an táng tại xã Đà Sơn.
Trung tuần tháng 6 năm Quý Tỵ (1413), vua hậu Trần là Trần Quý Khoáng bị quân Minh tiến đánh nên triều đình dời vào Hoá châu, đặt tạm triều đình ở trại của Phan Công Nhâm. Nhân đó, vua sắc phong cho ông Phan Công Thiên tước Công với danh hiệu Thành hoàng Thuận quốc Tướng Công, ăn lương vạn hộ. Năm Giáp Thân (1464), vua Lê Thánh Tông truy phong ông là Hữu Dực Thánh Thần hoàng. Năm Bảo Đại thứ 7 (1932), ông được sắc phong Đại khai quốc công Dực Bảo Trung hưng linh ứng tôn Thần. Đạo sắc phong cuối cùng này do nhờ tộc Phan xã đà Sơn phụng tự…
Theo bản văn trên và lăng mộ tại Đà Sơn thì họ Phan tại làng Đà Sơn được xem là gốc gác lâu đời nhất ở Đà Nẵng và làng Đà Sơn là làng thành lập đầu tiên tại Đà Nẵng. Kinh tế buổi đầu còn thô sơ, nông nghiệp là chủ yếu. Như vậy có thể nói làng Đà Sơn là vùng đất ổn định đầu tiên của thành phố Đà Nẵng.
Từ làng Đà Sơn, cư dân người Việt thời bấy giờ băng xuống vùng bồn địa Trà Na (phía Nam Hoà Sơn ngày nay), lập làng Phước Sơn, sau gọi Phước Sơn Đại xã [3], xây dựng chính quyền, soạn thảo khoáng ước quản lý nhân dân trong xã được thuần thục [4]. Về sau làng được chia tách nay là thôn Phước Thuận thuộc xã Hoà Nhơn, huyện Hoà Vang. Các tộc họ lại băng xuống phía Đông lập nên làng Nại Hiên, An Hải, Mỹ Khê…Nại Hiên là một trong những làng được xem là lâu đời nhất tại Đà Nẵng. Ngày nay Nại Hiên là làng nằm gọn trong vùng nội thành thành phố. Trong “Ô châu cận lục” của Dương Văn An không thấy chép xã Nại Hiên nhưng theo học giả Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục” có chép hai xã Nại Hiên Đông và Nại Hiên Tây. Về sau chính quyền lại chia thêm thành Nại Hiên Nam và Nại Hiên Bắc. Người dân nơi đây sinh sống vừa làm muối, và vừa sản xuất nông nghiệp. Theo đó có thể xem Nại nghĩa là là muối còn có nghĩa sự chịu đựng khó khăn. Xã Nại Hiên trước kia sinh sống chủ yếu bằng nghề làm muối và nghề nông, ruộng đất có ít, chỉ một số diện tích tại phía nam chùa Long Thủ, dài đến cầu Nguyễn Văn Trỗi bao quanh Đầm Rong mà thôi. Dân lại có thêm nghề đánh bắt cá tại sông Hàn, vươn ra vũng Thùng một đoạn theo phương thức quay vòng chiều đi sớm mai về và còn đánh bắt cá, tôm, ốc tại Đầm Rong. Từ lâu Nại Hiên có câu ca dao nổi tiếng của xã hiệu:
                   Nại Hiên là Nại Hiên ne
                   Lấy nước làm muối, lấy tre làm nồi [5].
Và cùng với thành lập làng (xã) Nại Hiên, lần lượt cư dân băng xuống ven sông lập xã hiệu Hải Châu. Hải Châu xã về sau trở thành khu vực trung tâm thành phố Đà Nẵng từ 1888 đến nay. Là trung tâm thành phố Đà Nẵng ngày nay, thời các chúa Nguyễn theo hướng Đông – Tây: từ bờ Tây sông Hàn đến đường Triệu Nữ Vương; theo hướng Bắc – Nam từ đường Hùng Vương đếna đường Thái Phiên ngày nay. Nay làng hải Châu chia thành hai phường : Hải Châu 1 và Hải Châu 2. Trung tâm xã là đình Hải Châu (nay thuộc phường Hải Châu 2). Dọc bờ Đông của xã có chợ Hải Châu, tục gọi chợ Hàn. Chợ Hải Châu xuất hiện rất sớm, trong bản vẽ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư  vẽ vào thế kỷ thứ XVII có chú thích: ăn ở chợ Hàn Quảng, ở thì Chân Đằng, trọ thì ở Từ Cú. Làng Hải Châu có từ thời gian nào? Căn cứ bia chùa Long Thủ được ông Lê Gia Phước khắc năm 1657, như vậy Hải Châu ra đời trước khi có chùa ít lâu. Có thể nói vào thời gian này làng Hải Châu, thiết lập các thiết chế văn hoá gồm đình Hải Châu, chợ Hải Châu…vào thế kỷ thứ XVII, cùng thời với sự phát triển cực thịnh của đô thị cổ Hội An. Sau khi thành lập đình, hằng năm tổ chức hai kỳ tế lễ: Xuân kỳ cầu Quốc thái dân an và Thu phước cầu cho đời sống nhân dân no đủ, làng xã yên ổn, phát đạt.
          Đến năm 1466, Lê Thánh Tông chia đất nước ra làm 12 Thừa tuyên, Thừa tuyên Thuận Hóa có hai phủ  là Tân Bình và Triệu Phong. Phủ Triệu Phong giới hạn từ Cửa Việt (Quảng Trị) đến phía Bắc Quảng Nam ngày nay và lãnh 6 huyện, 5 huyện phía Nam Quảng Trị vào và huyện Điện Bàn của Quảng Nam. Đà Nẵng thuộc Điện Bàn như Triệu Phong của Thuận Hóa, có tất cả 12 tổng, 96 xã.[6]
          Đà Nẵng lúc bấy giờ là một vùng đất nhỏ phía đông tiếp giáp với bán đảo Sơn Chà. Từ sau khi cướp ngôi nhà Hậu Lê, cơ bản về mặt hành chính thì nhà Mạc không thay đổi gì ở biên giới phía/vùng/ Nam; duy chỉ có 1 điều là Huyện Điện Bàn lúc này còn lại 66 xã, và không rõ lý do tại sao trong các xã thuộc vùng Đà Nẵng và phụ cận như: Liên Trì, Thạc Gián, Cẩm Lệ, Hóa Khuê [7] lại ghi vào Quảng Nam.
          Năm 1604, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàn cải đổi sắp xếp lại các đơn vị hành chính Đàng Trong. Sau 298 năm thuộc địa phận Tuyên Hóa (1306-1604), được tách ra nhập vào dinh Quảng Nam và nâng lên thành Phủ, lãnh 5 huyện: Tân Phước, Hòa Vang, An Nông, Phúc Châu, Diên Khánh. Đà Nẵng thuộc Huyện Hòa Vang.
          Từ đây, Đà Nẵng thuộc Quảng Nam. Kể từ năm 1604 trở về trước, về mặt giấy tờ thì Đà Nẵng thuộc dinh Thuận Hóa, nhưng thực tế thì thuộc Quảng Nam, vì quyền lực của trấn thủ Quảng Nam đã lấn lướt quyền kiểm soát của Thuận Hóa. Lúc này, hầu hết người ngoại quốc đến Đà Nẵng giao dịch và thừa nhận quyền lực của quan trấn thủ dinh Thanh Chiêm (cũng là tên gọi của dinh Quảng Nam), ít khi nói với nhà chức trách Thuận Hóa.
          Nhưng Đà Nẵng chưa phải là thành phố.
          "Thời trước Đà Nẵng chỉ là một bãi cát lớn, rừng, dân cư thưa thớt, phần lớn sống về nghề cá hoặc đi "bạn ghe" (thủy thủ). Nơi đây có cửa bể, thuyền bè qua lại, vào nghỉ tạm để lấy củi, nước hoặc thuận đường theo sông đào Cổ Cò (ngang qua Ngũ Hành Sơn) vào Hội An. Các thế kỷ XVI, XVII, XVIII, nó là cảng phụ của Hội An. Đến thể kỷ XIX mới mỗi ngày 1 phát triển thành 1 thị trấn độc lập".
          Ngày 24/5/1889, toàn quyền Đông Dương mới ra Nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam [8]. Thành phố Đà Nẵng được xếp vào loại thành phố cấp 2 (tức thành phố nhỏ) như thành phố Chợ Lớn trước đó, và Phnông Pênh (Căm- Pu -Chia) sau này. Như vậy nó cứ phát triển dần, đến đầu thế kỷ XX trở đi, trở thành thành phố lớn lấn áp cả Hội An. Về tổ chức hành chính, thành phố Đà Nẵng giống như tổ chức hành chính của thành phố Chợ lớn. Đốc Lý do Khâm sứ đề nghị và toàn quyền bổ nhiệm. Mọi quyết định của ủy ban thành phố phải được Khâm sứ thông qua mới được thi hành. Mười sáu năm sau, ngày 19/9/1905, toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách thành phố Đà Nẵng ra khỏi tỉnh Quảng Nam [9].
          Về phong tục tập quán (từ đầu thế kỷ XX về trước), dân địa phương chia Đà Nẵng ra thành từng khu, gọi là Xứ. Họ chỉ định nơi cư ngụ, ruộng đất, mồ mả, tổ tiên, ông bà, thân nhân của nhau bằng tên các xứ, không mấy khi dùng đến tên chính thức:
          Như tại Hữu ngạn sông Hàn có 1 xứ rất lớn, gọi là xứ Bà Thân. Xứ này bao trọn làng An Hải, là làng lớn nhất ở Hữu ngạn sông Hàn, từ phía Nam đầu cầu Nguyễn Văn Trỗi ngày nay, chạy dọc bờ sông Hàn đến vùng kế cận chân núi Sơn Chà và chia thành 3 xứ nhỏ từ Nam lên Bắc như sau: Bà - Thân hạ xứ, Bà Thân trung xứ, Bà Thân hậu xứ. Nhưng trong thực tế thì từ người địa phương đến người ngoại lai và cả sử sách, người ta đều gọi là Hà Thân chứ không gọi là Bà Thân. Vì thế nên ở đây ta quen nghe tên gọi các địa danh như: Hà Thân, Chợ Hà Thân, bến đò Hà Thân:

                             "Ở bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân
                             Thấy nước xanh như tàu lá,
                              Ở bên tê Hà Thân ngó qua bên ni Hàn,
                             Thấy phố xá nghênh ngang" [10].
                                                          (Ca dao Đà Nẵng)
Quá trình thành lập xứ đất Bà Thân – làng An Hải – sử chép như sau: Làng An Hải: Được nhập vào đất Đại Việt năm 1306. Theo lưu truyền trong nhân dân làng An Hải được hình thành do công khai phá của Bà Thân, (sau thường gọi là Hà Thân). Trên xứ đất này, cư dân vốn từphióa Bắc vào lập nên làng thời vua Lê Thánh Tông lập đạo Thừa Tuyên năm 1471. Năm 1466, vua Lê Thánh Tông chia nước ra thành 12 Thừa Tuyên, đất An Hải thuộc huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong, Thừa Tuyên Thuận Hoá. Năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông cho vào trấn thủ đất Thuận Hoá. Năm 1604, Nguyễn Hoàng cho tách Điện Bàn (phía Nam đèo Hải Vân) ra khỏi phủ Triệu Phong, Thuận Hoá, nhập vào dinh Quảng Nam và lập ra phủ Điện bàn gồm 5 huyện Tân Phước, Hoà Vang, Yên Nông, Phúc Châu, Diên Khánh. Đất An Hải thuộc về huyện Hoà Vang. Đến đầu thời Nguyễn đất làng An Hải thuộc xã An Hải, tổng An Lưu, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đến năm 1901, vua Thành Thái ký đạo dụ giao thêm một số xã phía Đông sông Hàn, trong đó có An Hải cho Pháp làm đất nhượng địa, đặt dưới sự cai quản trực tiếp của người Pháp. Thời kỳ này cư dân làng An Hải có chừng 30 – 30 hộ gia đình mỗi cụm dân cư  [11].
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, bộ máy cai trị của Nam triều và thực dân bị xoá bỏ. Uỷ ban Cách mạng lâm thời làng An Hải được thành lập. đầu năm 1946, chính quyền cách mạng chia các làng phía Đông sông Hàn thành 2 khu hành chính, làng An Hải thuộc khu hành chính Nguyễn Thái Học [12]. Giữa năm 1948, Uỷ ban kháng chiến khu Đông được thành lập, An Hải là một làng thuộc phường II. Trong kháng chiến chống Mỹ, An Hải là một phường thuộc quận Đông Giang của chính quyền Sài Gòn và năm 1971, chính quyền Sài Gòn chia An Hải thành 2 đơn vị hành chính, phióa nam đường Nguyễn Công Trứ là phường An Hải Nam, phía bắc là phường An Hải Bắc.
Sau 1975, chính quyền cách mạng thành lập phường An Hải Bắc trực thuộc quận III, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Năm 1978, giải thể cấp quận, thành lập đơn vị hành chính thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1997, làng An Hải xưa (bao gồm An Hải Bắc và An Hải Đông) thuộc thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương.
Làng Phong Lệ:
Lịch sử hình thành làng Phong Lệ là một tiến trình liền giòng với lịch sử hình thành làng Đà Sơn. Như phần trên đã trình bày và theo gia phả tộc Phan tại làng Phong Lệ (nay là Phong Nam) ghi chép ông Phan Công Thiên là vị tổ của họ. Theo đó cho biết làng Đà Ly cùng với đà Sơn trước kia là một làng rộng lớn, tồn tại cùng thời kỳ khai phá đất đai lệp nên làng bao gồm 13 châu, 50 trại và các làng xã phía Nam sông Thu Bồn đến động Trà Khuác (Quảng Ngãi ngày nay), từ đó ông Phan Công Thiên chia vùng đất Hoá Châu từ động Trà Ngâm (Ải Vân) đến động Trà Khúc lập huyện Đà Bàn (sau đổi thành Điện bàn). Phía Bắc ông chia cho hai con trai cai quản còn ông về tại trại Trà Na là Đà Sơn (Hoà Sơn ngày nay), vua Trần khen ông. Năm 1400 nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, do sợ bị liên luỵ, con trai trưởng xin từ chức lấy cớ là về phụng dưỡng mẹ già, ông con trai thứ thu hết giấy tờ sổ sách ra yết kiến quan nhà Hồ. Quan nhà Hồ chấp nhận cho ông cai quản vùng đất Nội Đồng. Năm 1404 Phan Công Nhâm đổi trại thành tổng xã rồi đổi các trại Nội Đồng, Kỳ La, La Hồng thành Đà Ly (bao gồm các thôn Cẩm Nam, Phong Nam, Phong Bắc và  khu dân cư Đà Ly thuộc phường Hoà Thọ Tây ngày nay). Làng Đà Ly ra đời.  
Đến thời Thiệu Trị, Ông Ích Khiêm người làng đà Ly làm quan to nên đã xin triều đình Huế cho đổi tên làng Đà Ly thành Phong Lệ. Làng Phong Lệ ra đời trong những năm từ 1841 – 1847.
Do thuận lợi về địa hình, đất đai, thổ nhưỡng, thời tiết cư dân ở lại tiếp tục phát triển nên làng từ thế kỷ thứ XIV, XV, bấy giờ làng có tên Đà Ly, từ đó đến nay nhân dân bám trụ, giữ làng, khai khẩn thêm đất đai, vườn tược, ruộng đồng, phát triển nông nghiệp đựoc xem là một trong những làng cổ lâu đời tại thành phố Đà Nẵng.
          Năm 1888, Pháp lập nên thành phố Đà Nẵng, từ việc tách 1 số xã thôn của Quảng Nam ra và cũng từ đây, Đà Nẵng trở thành thuộc địa của Pháp, còn gọi là xứ "nhượng địa" bằng đạo dụ của Đồng Khánh ra ngày 1/10/1888, trong đó ghi nhượng hẳn cho Pháp quyền sở hữu hoàn toàn Hà Nội, Hải Phòng và khu Đà Nẵng. Đạo dụ ngày 27 tháng 8 năm Mậu Tý (1-10-1888) của vua Đồng Khánh và được viên Toàn quyền Đông Dương phê chuẩn chính thức vào ngày 3-10-1888, Đà Nẵng vốn nằm trong tổng Bình Thái Hạ của huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Giới hạn ban đầu của “nhượng địa” này gồm 5 xã thôn thuộc tổng Bình Thái Hạ của huyện Hòa Vang: Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương, Nại Hiên với tổng diện tích 20.000 mẫu ta (10.000ha). Sau khi đã xác lập được quyền sở hữu, ngày 24-5-1889 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng theo biên chế thành phố cấp II. Từ năm 1889 đến tháng 8 năm 1905, thành phố thuộc xứ Quảng Nam.
Đến năm 1901, do sức ép của thực dân Pháp, vua Thành Thái phải ra đạo dụ ngày 15-1-1901 cắt tiếp các xã thôn: Xuân Đán, Thạc Gián, Liên Trì, Bình Thuận, Xuân Hòa, Thanh Khê, Đông Hà Khê, An Khê thuộc huyện Hòa Vang và Mỹ Khê, An Hải, Tân Thái, Nại Hiên Đông, Mân Quang, Vĩnh Yên thuộc huyện Diên Phước nhập vào “nhượng địa Đà Nẵng”. Đến đây, “nhượng địa” đã mở rộng ra cả 3 phía: phía đông vượt qua hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà; phía tây và tây bắc kéo dài đến đèo Hải Vân, tổng cộng gồm 19 xã, trong đó có 13 xã tả ngạn và 6 xã hữu ngạn, diện tích đã gấp 4 lần “nhượng địa” ban đầu. Ngày 19/9/1905, tách ra khỏi Quảng Nam[13].
Chỉ trong một thời gian ngắn, sau khi thành lập thành phố, trong phạm vi nội thị, các công sở của chính quyền thực dân lần lượt mọc lên, kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật hiện đại được xây dựng. Nhiều con đường được hình thành, chạy song song hoặc cắt vuông góc với nhau. Các hoạt động tài chính, công nghiệp, thương mại diễn ra nhộn nhịp. Dân cư đến sinh hoạt, buôn bán ngày một tăng. Đầu thế kỷ XX dân số của “nhượng địa” khoảng 10.000 người. Năm 1921 tăng lên 16.355, năm 1936: 25.000. Đến năm 1943 tăng tới 50.900 người.
Ngày 28-7-1940 quân đội Nhật chiếm đóng thành phố Đà Nẵng, biến nơi đây thành căn cứ quân sự và hậu cần ở miền Nam Trung Kỳ, mãi đến ngày 20-7-1945 mới trao trả cho chính phủ Trần Trọng Kim. Hơn 1 tháng sau, ngày 26-8-1945 nhân dân Đà Nẵng đứng lên giành lấy chính quyền về tay mình. Trong năm đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám, thành phố mang một tên gọi mới: Thành Thái Phiên.
Sau cướp chính quyền tháng 8/1945, Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Đến ngày toàn quốc kháng chiến 20/12/1946, thành phố Đà Nẵng hợp với tỉnh Quảng Nam thành Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ năm 1947 đến năm 1954, quân Pháp tạm chiếm thành phố, áp dụng lại chế độ “nhượng địa”, phục hồi lại tên gọi cũ Tourane, xây dựng nơi đây thành một căn cứ quân sự lớn và biến thành một cứ điểm chiến lược cho cả miền Trung Đông Dương. Trong giai đoạn này, dân số Đà Nẵng không tăng lên mà còn ít đi, do nhiều người sơ tán vào vùng tự do ở phía nam tỉnh Quảng Nam. Tại thời điểm năm 1952, dân số tính được là 45.834 người. Về phía cách mạng, ngày 6-9-1952 Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra Nghị định số 129/TTg sáp nhập thành phố Đà Nẵng vào tỉnh Quảng Nam, thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. 
Sau năm 1954, Đà Nẵng vẫn là đơn vị hành chính trực thuộc trung ương của chính quyền Sài Gòn, có diện tích 79,1km2, dân số 391.963 người. Năm 1962, địa giới Đà Nẵng được mở rộng ra một vài vùng đất của huyện Hòa Vang, gồm: một phần của thôn Hòa Phú thuộc xã Hòa Minh; tất cả phần đất bao bọc thành phố về phía nam và phía tây được tách ra từ ngày 19-11-1951 để mở rộng sân bay, cả xã Hòa Thuận và một phần thôn Hòa An của xã Hòa Phát. Qua lần mở rộng này, diện tích Đà Nẵng tăng lên 83km2. Đà Nẵng bấy giờ được chia thành 3 quận: Quận Nhất, quận Nhì, quận Ba.
Về phía chính quyền cách mạng, cuối năm 1962 Khu ủy 5 quyết định chia tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai tỉnh: Quảng Nam từ huyện Quế Sơn trở vào Tam Kỳ, tỉnh Quảng Đà từ huyện Duy Xuyên trở ra đến Hòa Vang, bao gồm cả Đà Nẵng.
Năm 1965, quân Mỹ chọn Đà Nẵng làm địa điểm đầu tiên để đổ bộ vào tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đà Nẵng bị biến thành một căn cứ quân sự liên hợp và dịch vụ chiến tranh lớn thứ hai của Mỹ ở miền Nam (sau Sài Gòn). Ngành công nghiệp của thành phố nhỏ bé, què quặt, lệ thuộc vào nước ngoài; hạ tầng kỹ thuật chủ yếu phục vụ cho chiến tranh; ngành tiểu thủ công nghiệp không phát triển, các ngành nghề truyền thống bị mai một; ruộng đất ở vùng ven thành phố bị bỏ hoang.
Từ năm 1964 đến năm 1967: Thành phố thuộc Trung ương. Về phía địch, bằng Nghị định số 377/ĐUHCNĐ/NC ngày 17/6/1967, chúng phân cấp Đà Nẵng là thị xã và chia Đà Nẵng ra làm 3 quận, 28 khu phố như sau:
          + Quận I (từ tết Mậu Thân (1968) trở về trước ta gọi là quận II, sau Mậu Thân ta gọi là Quận I), gồm 12 khu thuộc nội thành là: Hải Châu, Nam Dương, Phước Ninh, Thạc Gián, Bình Thuận, Hòa Thuận, Nại Hiên Tây, Xuân Bình, Chính Trạch, Thiệu Bình, Thạch Thang, Tam Tòa.
          + Quận II (ta gọi là quận I), gồm có Phú Lộc, Thanh Khê, Hà Khê, Xuân Đán, Phục Đán, Yên Khê, Xuân Hòa và 3 xã: Hòa Minh (có Đa Phước, Hòa Mỹ, Trung Nghĩa, Hòa Phú, Phước Lý, Hòa An), Hòa Khánh (có Khánh Sơn, Đà Sơn và khu di cư Đa Phước) và Hòa Phát (gồm Phước Tường, Nghi An) là vùng ranh của thành phố!.
          + Quận III (ta cũng gọi là quận III, trong kháng chiến ta còn gọi là quận Đông Giang), gồm 9 khu phố: Mỹ Khê, Tam Thái, Sơn Trà, Nại Hiên Đông, Phước Trường, Cổ Mân, Nhượng Nghĩa, An Hải, Mân Quang [14].

          Thanh Khê, Chính Gián, Thạc Gián,Vĩnh Trung, Tân Chính, Bắc Mỹ An. Khác với địch, phía ta, thành phố Đà Nẵng từ năm 1967 thuộc Đặc khu Quảng Đà cho đến tháng 3/1975 [15]. Sau ngày giải phóng 29/3/1975, Đặc khu Quảng Đà và Nam Quảng Nam sát nhập thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng . 3 quận của Đà Nẵng như 3 đơn vị huyện thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ tháng 4/1978 đến nay thì 3 quận nhập lại thành Thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng - bỏ quận và phân chia thành 28 phường: Khuê Trung, Hòa Cường [16], Hòa Thuận, Bình Thuận, Bình Hiên, Nam Dương, Phước Mỹ, Hải Châu I, Hải Châu II, Thạch Thang, Thanh Bình, Thuận Phước, Tam Thuận, Xuân Hà, Thanh Lộc Đán, An , Phước Mỹ, An Hải Đông, An Hải Tây, Nại Hiên Đông, An Hải Bắc, Mân Thái, Thọ Quang [17].

Trong chiến tranh, số người từ các vùng quê tránh bom đạn chiến tranh đến sống ở Đà Nẵng ngày một nhiều, khiến cho dân số nơi đây tăng vọt. Năm 1966 có 146.000 người, tới đầu năm 1975 đã lên con số gần một triệu người. Mật độ dân số 13.000 người/km2. Ở thời điểm năm 1974, một người đương thời nhận xét: "Đà Nẵng không thể có hình dáng của một tỉnh hay một thành phố vươn lên phát triển mạnh mẽ công nghiệp địa phương ngay trong chiến tranh để đương đầu với chiến tranh.  
                             
                                                     ****


V. Sau năm 1975
Ngày 29-3-1975, lịch sử Đà Nẵng bước sang một trang mới: Xây dựng và phát triển trong hòa bình, độc lập. Tháng 2-1976, tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Đà hợp nhất lại thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. 3 quận của Đà Nẵng là những đơn vị trực thuộc tỉnh. Đến ngày 30-8-1977 cả 3 quận hợp nhất lại thành thành phố Đà Nẵng. Năm 1996, theo Nghị quyết ngày 6-11 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn việc tách Đà Nẵng ra khỏi tỉnh Quảng Nam, thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Ngày 1-1-1997, thành phố Đà Nẵng chính thức trở thành một đơn vị hành chính mới, có diện tích tự nhiên 1.248,4km2, trong đó diện tích nội thành 205,78km2, dân số 663.115 người.
Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng được chia làm 5 quận (Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu) và 2 huyện (Hòa Vang, Hoàng Sa), bao gồm 33 phường và 14 xã. Đến năm 2005, theo Nghị định số 102, ký ngày 5-8-2005 của Chính phủ, huyện Hòa Vang tách ra thành 2 đơn vị hành chính: huyện Hòa Vang gồm 11 xã và quận Cẩm Lệ gồm 6 phường. Tính đến thời điểm hiện nay, Đà Nẵng có tất cả 6 quận và 2 huyện, gồm 56 phường, xã, dân số trên 834.000 người.
Ngày 23-10-1997, Đà Nẵng được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, xác định nơi đây sẽ là một trong những trung tâm vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và của cả nước. Đến ngày 15-7-2003, Đà Nẵng được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 145 công nhận là đô thị loại 1. Ngày 16-10-2003, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cho Đà Nẵng những điều kiện và cơ hội mới trên bước đường phát triển.
Sau hơn 10 năm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng đã có những bước phát triển vượt bậc. Bộ mặt thành phố thay đổi hẳn với những công trình cao tầng, nhiều con đường lớn, các cây cầu bắc ngang sông Hàn, tăng trưởng GDP luôn duy trì ở mức cao. Thành phố đang từng bước hình thành nền sản xuất công nghiệp vững mạnh; thương mại - dịch vụ đã vươn tới tầm trung tâm của khu vực; văn hóa - xã hội có những chuyển biến mạnh mẽ, nhất là Chương trình thành phố “5 không” và “3 có” đi vào cuộc sống. Một số lễ hội cổ truyền dân tộc được khôi phục như lễ hội đình làng Tuý Loan, Hoà Mỹ,...lễ hội cầu ngư, lễ hội đua ghe, lễ hội bắn pháo hoa trên sông Hàn tạo nên nếp sinh hoạt văn hoá gắn với tín ngưỡng dân gian địa phương. Với những thay đổi đó, Đà Nẵng thực sự là một trong những đô thị lớn của cả nước.

                                                                   Võ Văn Hoè
         
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1.Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 1, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983
2.Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985
3.Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 4, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973
4.Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 2, Khoa hoc xã hội, Hà Nội, 1970
5.Dư Địa Chí, trong Nguyễn Trãi Toàn Tập, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977
6. Hồng Đức Bản Đồ, Sài Gòn 1962.
7. Dohamide, Doriheim, Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn, 1965.
8. Lê Qúy Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977
9. Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình Địa Dư Chí, Tự Do, Sài Gòn, 1959
10. Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Giáo Dục, Hà Nội, 1995
11. Nguyễn Văn Dương, Lược Sử Chữ Hán, Tài liệu in ronéo dành cho sinh viên Đai học Văn Khoa Huế, 1974
12.Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Khởi Nghĩa Lam Sơn, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.
13. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, .. ., Lịch Sử Việt Nam, tập 1, ĐHTHCN, Hà Nội, 1983
14. Trần Quốc Vượng, Miền Trung Việt Nam và Văn Hóa Champa, Tạp chí Nghiên Cứu Đông Nam Á, số 4/1995.
15.Vũ Ngọc Khánh, Lê Lợi, con người và sự nghiệp, Thanh Hoá, 1985.
16. Maspero, G.,  Le Royaume du Champa, Paris, 1928.    
17. Keith W. Taylor, The Early Kingdoms, in Nicolas Tarling (ed.) The Cambridge History of Southeast Asia, Vol I, Cambridge University Press, 1994.



[1] Nay là khu dân cư Đà Sơn, Khánh Sơn thuộc phường Hoà Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Đà Ly nay là khu dân cư thuộc phường  Hoà Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
[2] Tháng 6.1306 làm lễ rước dâu.
[3] Còn gọi là đất Ngũ Phước, gồm: Phước Hưng, Phước Hậu, Phước Thới (Thái), Phước Thuận, Phước Hương.
[4] Bản khoán ước có đoạn viết: “Chúng tôi là những viênc hức lớn nhỏ trong Phước Sơn xã, Phước Tường Thượng tổng, Hoà Vang huyện, Điện Bàn phủ, nay cử ôngcựu Cai là Đàm làm chức Trùm Cả để lo việc tế đình, sắp lễ cúng và thể theo khoán lệ khu xử nhưng việc đúng sai trong xã, giữ địa phận xã…Theo khoán lệ tiền hiền, mõ treo ở đình khi có công vụ mới được đánh, không được kinh nhớn. Việc công đánh hai vòng là một hồi, khi nhóm họp đánh vòng tức nột hồi…Theo khoán lệ tiền hiền trống treo tại chùa, Trùm Cả, thầy Chùa, viên chức chỉ hai người được đánh, hạng dưới không tự tiện…Theo khoán lệ tiền hiền, chiêng trống là tiếng báo hiệu đến họp tại nhà Trùm gia, Xã trưởng, hoặc khi có công vụ, hội vụ nên lấy số vòng làm quy định…”
[5] Câu này còn đọc là: Nại Hiên là làng ý e/ Nấu muối bằng nước lấy tre làm nồi. Địa bàn cư trú trước kia của làng Nại Hiên Tây nằm phía tả ngạn sông Hàn, bao gồm Khu bảo tàng điêu khắc Chăm, chùa Long Thủ, nay là phần đất các phường Bình Hiên, Phước Ninh, Bình Thuận Đông. Làng Nại Hiên Nam nằm dọc theo vùng đất cát dọc theo đầm Rong (nay là khu vực tàu du lịch đậu kéo dài qua Công Ty Sông Thu đến bờ Nam cầu Nguyễn Văn Trỗi. Vùng đất này đã chỉnh trang đo thị trở thành khu Đảo Xanh của thành phố Đà Nẵng. Làng Nại Hiên Đông nằm phía hữu ngạn sông Hàn, sau nhập vào làng Bắc Mỹ An (khu vực Mỹ Thị), nay là khu dân cư  phường Bắc Mỹ An, chuyên trồng rau xanh các loại, nuôi cá. Nại Hiên Bắc nằm cách xa làng chính có đến hơn 10 cây số đường chim bay, thuộc khu vực dọc bờ biển Nam Ô thuộc xã (phường) Hoà Hiệp, huyện Hoà Vang sau nhập vào làng Nam Ô, nay là khu dân cư Nam Ô, phường Hoà Hiệp Nam, quận Liên Chiểu.
[6] Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong. Khai Trí. Sài Gòn.1970. tr.115.
[7] Xem: Lịch sử  Đà Nẵng của Võ Văn Dật. Sđd. Tr.36.
[8] Ngày 8.1.1887, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh chính thức thành lập thành phố Sài Gòn. Sắc lệnh này được ban hành ngày 16.5.1877. Ngày 19.7.1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập 2 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng và  công nhận thành phố cấp 1 (tức thành phố lớn) như  Sài Gòn. Xem: Việt Nam và những sự kiện lịch sử, tập 1 (1858-1896). Nhà xuất bản KHXH. Hà-Nội.1981 . tr.334-336.
[9]  Việt Nam những sự kiện lịch sử. T1 1858-1896. NXB. Khoa học xã hội. Hà Nội năm 1981.tr.333-334.
[10] Lâm Quang Thự: Quảng Nam địa lý- lịch sử - nhân vật. Ban liên lạc đồng hương Quảng Nam và UB Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thanh Hóa xuất bản.1974. Tr.65.
68 Xem Lịch sử Đảng bộ phường An Hải Đông, Nxb Đà Nẵng, 2009 và Lịch sử đảng bộ phường An Hải Bắc, Nxb Đà Nẵng, 2009. Bà Thân do có công khai phá lập nen làng, vua Lê Thánh Tông trao cho giữ vùng đất phía Đông sông Hàn, gồm 4 xứ là Bà Thân thượng xứ, Bà Thân trung xứ, Bà Thân hạ xứ và Bà Thân hậu xứ. Bốn xứ đất này đều nằm dọc theo sông, nên tục dân gian thời bấy giờ thường quen gọi là Hà Thân, truyền tụng mãi cho tới ngày nay. Bởi vậy, địa bộ của làng An Hải, văn bia cổ làng An Hải cũng như trát lập chợ An Hải của Thống chế Thoại Ngọc Hầu đều chép là Bà Thân hay Hà Thân.
    Đối với Bà Thân, chuyện kể rằng: Bà Thân ngoài việc chăm lo an ninh trật tự và đời sống của nhân dân địa phương do Bà Thân quản lý. Ngày ngày Bà Thân còn cơm nhà trầu đảy, thắt lưng buộc bụng làm theo kiểu "ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng", nghĩa là Bà Thân luôn mang bên mình cái túi đảy, đựng đầy trầu cau, món ăn rất ưa thích của phụ nữ, vai vắt khăn hay quấn khăn trên đầu, lặn lội đi khắp vùng đất cồn hoang trơ trụi nóng bỏng. Đi tới đâu, tuỳ theo địa thế, Bà Thân trồng cây tràm hay cây thông (tức cây dương liễu) là những loại cây chịu khô hạn và nắng gió. Công sức của Bà Thân làm với mục đích là trồng cây gây rừng, phủ kín đất hoang bạch sa, không để đất này biến thành sa mạc, hoang mạc. ý thức trách nhiệm và việc làm của Bà Thân cách nay trên 530 năm mà vẫn còn quá mới mẻ như ngày nào. Chẳng bao lâu sau, cả vùng đất hoang đều được phủ màu xanh của những rừng tràm và rừng thông. Tràm và thông là hai loại cây đem lại nguồn lợi kinh tế, cải thiện đời sống cho nhân dân vùng này. Vỏ cây tràm và vỏ cây thông ngâm với nước, sẽ ra màu đỏ sẫm, làm thuốc để nhuộm áo quần cùng ngư lưới cụ đánh bắt cá có màu chàm, nếu nhuộm nhiều lần sẽ cho màu đen. Màu chàm và màu đen là những màu rất thông dụng đối với nhân dân lao động. Vỏ tràm và vỏ thông không chỉ cung cấp trong vùng mà còn đem bán các nơi khác. Thân cây tràm và thân cây thông thì làm củi đun rất đượm lửa. Xem thế, công sức của Bà Thân đã bỏ ra để lo cho đời sống nhân dân trong vùng thật không nhỏ và những công ích cùng nguồn lợi của cây tràm, cây thông đã đem lại kinh tế thiết thực cho nhân dân quả thật đáng khen cho ý thức trách nhiệm của Bà Thân. Bà Thân từng bảo rằng, đất nào có rừng tràm, rừng thông là đất của ta. Những rừng tràm và rừng thông do Bà Thân ươm trồng vẫn còn tồn tại dấu vết cho đến trước Cách mạng tháng 8 - 1945. Tuyến đường Ngô Quyền ngày nay, xưa là con đường mòn gọi là hương lộ, chạy ngang qua những cánh rừng thông, nên thời bấy giờ mang tên là Đường cây thông.  Nhờ Bà Thân tiền hiền đã xả thân, không quản công, không ngại khó nhọc mà vùng đất do chính Bà Thân khai phá được tạo lập nên làng An Hải, có diện tích đất trên 6 ngàn mẫu, chiếm gần một nửa tổng diện tích đất của 8 làng cũ thuộc địa bàn Khu Đông cộng lại. Bao gồm các làng: Mân Quan (Quang), Nam Thọ, Tân Thái, Cổ Mân, Nại Hiên Đông, Phước Trường, Mỹ Khê và An Hải. An Hải ngày xưa được xem một trong 5 xã lớn của đất Quảng Nam. Bao gồm: An Hải, Hải Châu, Hoá Khuê, Trà Kiệu và Chiêm Đàn, gọi là "Quảng Nam ngũ đại xã". Ngày nay, trên địa bàn quận Sơn Trà có 7 phường, thì làng An Hải được chia cắt thành đến 3 phường là An Hải Bắc, An Hải Đông và An Hải Tây cùng với các phường Thọ Quang, Mân Thái, Nại Hiên Đông và Phước Mỹ.Ngoài ra, làng An Hải còn có thôn An Thượng kết hợp với một phần đất của làng Mỹ Thị thành phường Mỹ An, thuộc quận Ngũ Hành Sơn. Trong đó, đất của khối An Thượng chiếm đến 2/3 diện tích đất thuộc phường Mỹ An. Xem thế, có thể nói, Bà Thân là bậc tiền hiền có công rất lớn trong việc hình thành và xây dựng làng quê An Hải, góp phần tốt đẹp kiến tạo quê hương Đà Nẵng thân yêu được rạng danh.
[12] Bao gồm các làng: An hải, Mỹ Khê, Phước Trường, Nại Hiên.
[13]  Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập 1 (1858-1896) Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 1981.tr.334 - 336.
[14]  Xem tài liệu: 2 và 29/CTLK – 1, lưu tại Kho lưu trữ Ban Tuyên giáo Thành uỷ Đà Nẵng.
[15]  Tháng 11/1967, Trung ương quyết định bỏ đơn vị tỉnh và thành phố, nhập cả Quảng Đà và Đà Nẵng  thành lập Đặc khu Quảng Đà, gồm 3 khu: Khu Bắc, khu Trung, khu Đông và 3 quận: Quận I, Quận II, Quận III. Xem T/L: 3/III - G, Kho lưu trữ Ban Tuyên giáo Thành uỷ Đà Nẵng.
[16] Quận I cũ lấy Hòa Cường và Khuê Trung của huyện Hòa Vang và chia thành 2 phường: Hòa Cường và Khuê Trung. Xem tài liệu: 02/CTLK - I lưu tại Kho lưu trữ Ban Tuyên giáo Thành uỷ Đà Nẵng.

Không có nhận xét nào: