Thứ Tư, 1 tháng 4, 2020

Biểu tượng tính thiêng trong tín ngưỡng dân gian Cơ Tu


Biểu tượng hay ký hiệu là một hình ảnh, ký tự hay bất cứ cái gì đó đại diện cho một ý tưởng, thực thể vật chất hoặc một quá trình. Mục đích của một biểu tượng là để truyền thông điệp ý nghĩa một cách dễ dàng và ngắn gọn, nhanh chóng. 
Trong lời mở đầu sách từ điển Những biểu tượng văn hóa, có viết: “Khởi nguyên, biểu tượng (symbole) là một vật được cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai người mỗi bên giữ một phần, chủ và khách, người cho vay và người đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp chia tay nhau lâu dài,…Sau này ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối dây thân tình xưa, món nợ cũ, tình bạn ngày trước”.
Có thể nhận ra biểu tượng là hình thức cao của quá trình nhận thức sự vật và hiện tượng. Trong văn hóa biểu tượng thể hiện sự ước mong, những hy vọng thể hiện hạnh phúc con người thông qua ký hiệu nào đó. Cây nêu, cột lễ của tộc người Cơ Tu là một cách biểu hiện như thế, chỉ sự tồn tại tộc người trong ký ức cộng đồng thông qua các biểu tượng mà cây x’nur là biểu tượng tập trung ý chí cộng đồng. Trong quá trình vươn lên tồn tại của tộc người Cơ Tu trên đại ngàn Trường Sơn, họ đã tạo ra nhiều biểu tượng khác nhau mang tính ký hiệu biểu đạt. Không chỉ cây x’nur, cây nêu mà các biểu tượng các loài hoa, loài cây được tạo hình trên thổ cẩm là những biểu tượng có tính biểu đạt ý chí, nguyện vọng của họ. Không chỉ thế, ngay trên gươl, trên dụng cụ vẫn thể hiện những biểu tượng biểu đạt về họ. Những biểu tượng dân gian đó được lưu giữ trong cộng đồng làng và được truyền lại cho người sau bằng ký ức, sự ghi nhớ. Và vì là biểu tượng dân gian nên rất đa dạng, có tính phổ quát và hẳn nhiên mang tính cộng đồng làng. Cây nêu, cột lễ x’nur của tộc người Cơ Tu tồn tại bền vững trong cộng đồng trải qua nhiều thời kỳ phát triển, được lưu truyền sâu rộng trong mỗi thành viên một cách bền vững. Các tộc người khác biết đến họ nhờ tính bễn vững của biểu tượng.
Thế nên, biểu tượng (symbole) tính thiêng của tộc người Cơ Tu luôn biểu hiện tính đa nghĩa trong hệ thống sử dụng các ký hiểu biểu đạt mà người Cơ Tu sử dụng thông qua x’nur, cây nêu hay nhiều ký hiệu khác nữa. Tất cả được huy động tập trung biểu hiện tính thiêng liêng của hệ thống yang trong thế giới quan của tộc người Cơ Tu. Trong quá trình tồn tại và phát triển trên vùng Trường Sơn, người Cơ Tu tạo ra nhiều biểu tượng biểu đạt sự phát triển khác nhau, qua đó, có thể khảo chứng đặc điểm quan trọng của biểu tượng như Iuri Mikhailovich Lotman nhìn nhận: “Biểu tượng còn có một đặc điểm quan trọng: biểu tượng không bao giờ thuộc vào một mặt cắt đồng đại của văn hóa, nó bao giờ cũng xuyên qua mặt cắt đó bằng chiều dọc, đi từ quá khứ đến suốt tương lai”. Điều này cho thấy các biểu tượng người Cơ Tu hình thành, sáng tạo ra đã gắn chặt với cuộc sống của họ theo chiều dài phát triển trên vùng rừng núi Trường Sơn từ xưa đến nay. Sự tồn tại của biểu tượng là cách thể hiện văn hóa tộc người.

         Không gian thiêng
Không gian thiêng là khoảng không gian được giới hạn trong chừng mức người ta quy định cho lễ cúng yang. Thực ra, không gian thiêng của tộc người Cơ Tu rất rộng lớn, là cả bầu trời mà ở đó yang Trời - yang tối cao (yang pool) - ngự chế và cai quản. Tuy nhiên, để có thể tạo thành không gian thiêng trong lễ hội đâm trâu mừng lúa mới, người Cơ Tu quy định trong phạm vi nào đó được cho là không gian thiêng. Không gian này được chỉ định trong khoảng giữa hai cây nêu bằng tre được trồng đối xứng với cây x’nur, hai ngọn tỏa ra hai bên với nhiều cái hoa bằng tre (a bung) hay hoa dây mây (a dương) gắn vào thân nêu. Nơi hai ngọn tre vươn ra đến đâu, nơi đó được giới hạn là không gian thiêng, tức không gian diễn ra quy trình lễ cúng yang. 
Hoặc, đôi khi, người ta quy định giữa hai cây nêu dùng sợi dây cột túm hai đầu cây tre, tạo nên hình rừng núi (răng cưa), trong khoảng không gian đó được cho là không gian thiêng. Nơi các yang xuống giao tiếp, kết nối với cộng đồng và với các thành viên trong làng. 
Tuy nhiên, nói không gian thiêng phải kể đến không gian của một làng người Cơ Tu đang sinh sống. Bởi vì đấy được cho là không gian ẩn hiện của yang, tổ tiên và các loại ma. Là sự hiển linh của ma tồn tại đâu đó trong làng. Có thể lực lượng này là ma hiền nhưng không thiếu ma dữ, luôn làm hại các thành viên của làng. Theo đó, trong trường hợp làng Cơ Tu có bệnh dịch nhiều người chết, hay mất mùa đói kém, một vài người sinh đẻ chết, tự tử, bị thuốc chết - chết xấu - được cho không gian thiêng bị xâm hại, Hội đồng già làng tư vấn cho chủ làng đưa ra quyết định quan trọng. Quyết định này ngay tức khắc được thực thi. 
Hoặc sự xuất hiện sự linh thiêng bất thường của các loài chim, như chim t’ring, gà trống, tiếng kêu của một loài thú đi hoang làm cho dân làng chú ý,…được cho là biểu tượng của tính thiêng bị xâm hại, thì đấy là cả một không gian thiêng của làng Cơ Tu đã có sự chuyển đổi. Cần tìm đến yang để được ổn định, điều chỉnh mọi hành vi của thành viên làng. Người trong làng, người ngoài làng thực hiện trong không ra, ngoài không vào làng, ít phải trong vòng sáu ngày.
Trong một lễ đâm trâu, không gian thiêng mặc dầu được giới hạn một khoảng không gian nhất định, nhưng kỳ thật còn rộng lớn hơn thế. Vào buổi tối thường không gian thiêng thể hiện tính thiêng. Trong đêm vắng, nghi lễ khóc trâu được tiến hành, nhảy múa mừng yang, mừng cộng đồng, kéo dài đến sáng hôm sau là thể hiện cao điểm của không gian thiêng. Trong không gian này, người Cơ Tu cúng yang, ném con gà vào rá pà pà trên đầu cây x’nur. Và lễ kết thúc khi mọi nghi lễ được diễn ra và đạt nguyện vọng của dân làng. Đấy cũng chính là đặc điểm sinh thái thể hiện tính thiêng trong không gian thiêng của nghi lễ cúng yang.
Nghi lễ cúng yang, thể hiện qua đặc điểm sinh thái: cây x’nur, cây nêu, con gà, con heo, đầu trâu, máu,…là cách thiêng hóa lực lượng tự nhiên của người Cơ Tu. Đây là biện pháp ứng xử khéo khéo, hài hòa giữa thiên nhiên, lực lượng siêu nhiên với con người lấy rừng núi là cứu cánh trong cuộc sống để tồn tại. Đồng thời cho thấy sự ứng xử giữa người với người trong cộng đồng làng. Khi người Cơ Tu tổ chức lễ đâm trâu đánh dấu sự sụp đổ, sự vô hiệu lực của những bóng ma xấu trong một năm đeo bám quấy phá cộng đồng làng; đồng thời, thông qua không gian thiêng trong lễ cúng yang cho thấy sự tan rã của những thỏa ước trong xã hội truyền thống người Cơ Tu luôn bị yang ràng buộc trên tất cả các mặt hoạt động của đời sống con người suốt cả một năm. Lễ đâm trâu theo đó được cho là mở ra một bước ngoặc mới cho một năm mới yên bình, no đủ.
Hiện nay, không gian thiêng tại một số làng Cơ Tu có sự biến đổi, có thể tìm thấy qua khảo sát các thôn Tà Lang, Giàn Bí, và thôn Phú Túc của huyện Hòa Vang.

           Cây cột lễ, cây nêu
     Cây cột lễ, trước hết bản thân nó thể hiện tầm cao. Ngọn của x’nur cao hơn độ cao của gươl làng.  Sự thể hiện đó cho thấy ý tưởng tộc người Cơ Tu tìm đến sự thăng hoa hay hơn thế là siêu thăng hóa trong thế giới tinh thần. Họ gửi vào biểu tượng x’nur tinh thần hóa mọi năng lượng con người, đồng hóa tất cả các năng lượng con người có được, được biểu thị từ Trời. Với quan niệm như thế, cây cột lễ giữa sân, trước gươl thể hiện tầm cao, trước hết làm cho các thành viên trong cộng đồng làng tuân thủ về mặt đạo đức mà cụ thể là không vi phạm luật tục - cái đã được cụ thể hóa từ phong tục tộc người. Với ý nghĩa đó, chiều cao (thẳng đứng) của cây x’nur cao lớn về mặt biểu hiện ý nghĩa hơn là bản thân nó có độ cao về mặt mặt vật lý, tức là biểu tượng cây cột lễ mà người Cơ Tu xem là rất quan trọng và thiêng liêng trong lễ tế yang của họ. Người Cơ Tu sáng tạo ra cây x’nur, tưởng tượng và chia ra, sắp đặt trên biểu tượng ba tầng thế giới, thể hiện tâm thức con người là cột thiêng, thông với trời - đất - người và cõi âm phủ, tạo cho trí tưởng tượng của họ phong phú và chính đó, sức mạnh tinh thần của tộc người được nâng lên, tạo nên động cơ cho sức mạnh tâm thức Cơ Tu trên rừng Trường Sơn. Tất cả chiều cao, tâm thức đang vận động giao thoa cùng thế giới siêu nhiên đã và đang duy trì sự sống.
Cây x’nur, lễ phẩm dâng lên yang là một biểu tượng mang tính thiêng liêng trong hoạt động cúng yang cao nhất của người Cơ Tu. Đây được cho là thể hiện sinh hoạt văn hóa cao nhất của người Cơ Tu với yang, với người và với tự nhiên. Cây cột lễ là biểu tượng, tượng trưng cho mọi ứng xử với yang, với người. Và vì là biểu tượng nên bản thân cây x’nur mang tính đa nghĩa. Người ta có thể luận giải về cây x’nur dưới nhiều góc nhìn khác nhau: chết chóc, đói kém, no đủ, bệnh tật, bình yên,…đều được lý giải qua cây x’nur trong lễ đâm trâu. Người Cơ Tu ngưỡng vọng hệ thống yang thông qua cây x’nur, bởi x’nur là cầu nối, là trục giao tiếp, nơi liên kết một bên là thế giới các yang và một bên là thế giới con người trần tục. Theo đó, cho thấy cây x’nur, và các vật hiến tế (mang tính sinh thái) cùng với nghi, lễ là biểu hiện cao nhất mà người Cơ Tu muốn gởi đến các yang. Trong những lần hiến tế lên yang ở tầng vũ trụ, toàn bộ những gì là lễ phẩm hiến tế đều thuộc về các yang, bởi vì các yang/ thần linh là đối tượng hiến tế. Người ta trích đầu trâu, đuôi trâu, máu trâu, con gà trống tơ ném lên rổ pà pà nhằm dâng hiến lên yang và cầu mong yang chấp nhận. Vật dâng hiến còn lại sẽ được chia đều cho những người tham dự lễ hiến sinh trâu và còn chia cho người không đến được trong lễ dâng hiến. Trong lễ đâm trâu của người Cơ Tu, người chủ lễ thường là chủ làng, họ thay mặt nhưng không thay thế được những người dâng hiến, bởi họ là người trung gian, còn người dâng hiến là tất cả dân làng. Con trâu hiến sinh là lễ của người dâng hiến tế, trâu là phương tiện để gửi thông điệp làm vật thay thế người dâng hiến - là cộng đồng người làng - nên trước khi đưa mũi giáo đầu tiên đâm trâu, người làng cử người đâm trâu và người khóc trâu, vỗ về, an ủi trâu, hãy vì cộng đồng làng mà hy sinh hiến tế. Trâu hãy an tâm vui vẻ vì cộng đồng làng. Dân làng gởi gắm niềm tin vào trâu thay mặt người làng, hy sinh để người làng đạt được nguyện vọng hiến dâng, đó là những mục đích có lợi mà cộng đồng chờ đợi từ các yang/ các thần linh ban phát. Thực tế trong cuộc hiến tế, người Cơ Tu nhận ra thông qua hình thức hiến tế là muốn tìm đến sự đẩy lùi, tẩy sạch mọi phiền muộn, khổ đau, đói kém ra khỏi tinh thần của mỗi người và cả cộng đồng làng. Sự đẩy lùi điều không may mắn này thể hiện bằng vật hiến tế (trước kia là máu và đầu người) nay là con trâu - một con trâu đẹp toàn diện - mong khả năng tạo ra một nguồn năng lượng tinh thần cho người làng là hoàn toàn có thể. Cầu vọng như thế mang yếu tố ma thuật nhằm giảm thiểu sự sợ hãi. Vật hiến tế càng quý bao nhiêu thì năng lượng tinh thần nhận lại sẽ là bấy nhiêu, cả việc được mùa no đủ và nhất là nhận lại một tinh thần minh mẫn trong một thân thể không ốm đau, dịch bệnh. Đây là năng lượng căn cốt cần nhận lãnh. Thế nên, con trâu được nuôi nấng tại khu rừng riêng biệt, được chăm sóc tử tế và được nuông chiều ăn no ngủ kỹ.
Và để cây x’nur lung linh huyền ảo giữa làng, các nghệ nhân dân gian Cơ Tu tài hoa thể hiện nét đẹp của mình thông qua đường nét chạm trổ mỹ thuật, những khắc chạm dân gian bình dị không có lý luận điêu khắc soi đường, nhưng với màu sắc rực rỡ của những chiếc hoa a tút, hoa pơ lơm, những mũi chông,… hình ảnh mặt trời được cách điệu hay những bông hoa đẹp nhất trên rừng Trường Sơn, cây rau dớn,… được mô phỏng trên x’nur, xem đó là sự tỏa hương, là lúc mãn khai để thăng hoa, tất cả thể hiện đức tin, sự sáng tạo để hiến dâng lên các yang của người Cơ Tu nơi rừng thẳm.
Theo tập tục xưa truyền lại, trước khi làm lễ đâm trâu, trâu hiến tế phải được các già làng tắm rửa sạch sẽ và ăn đủ no. Trong nghi lễ đâm trâu và cúng yang lúa, chủ làng cùng đội cồng chiêng, đội múa tâng tung da dắ đi vòng quanh cây nêu, (hướng ngược chiều kim đồng hồ). Các loại nhạc cụ cơ thu, chơ gơ, cồng, chiêng, sáo trúc tấu lên giai điệu nhạc lễ. Khóc trâu là nghi lễ cần có được tổ chức ngay tại vị trí cột trâu. Lời thương tiếc từ đó cất lên, tiễn biệt trâu và mong rằng trâu đừng trách ai cả, không nên trách dân làng, vì đó là sứ mệnh thiêng liêng của trâu phải về với cõi thần linh, giúp dân làng có được ấm no. hạnh phúc. Khóc trâu cũng là nghi thức tạ ơn trâu đã vì con người mà tự nguyện hiến dâng. Nhiệm vụ thiêng liêng của trâu là vật hiến tế thần linh, mong trâu vui vẻ để yang được yên lòng, giúp cho cộng đồng làng bình yên trong năm mới đến. 
Phía trong, đối diện với gươl, các vị già làng thiết trí một lều cúng bằng nhiều tấm tút ghép lại, gọi là ganâu rộng chừng 6 m2, đấy là lều cúng. Lều thổ cẩm thiết trí mỗi khi có lễ cúng yang, sau đó xếp đặt lưu giữ cho năm sau. Nơi đó được cho là điểm yang ngự tọa chứng kiến lễ đâm trâu hiến tế của dân làng. Trong không gian thiêng đó, tất cả phải được tiến hành chu đáo đúng lễ nghi và mỗi thành viên đều phải thật lòng đến với yang để cầu xin, nguyện ước điều mình muốn lên yang.  
Ngay giữa chiếc lều thổ cẩm, chủ làng và Hội đồng già làng đặt một mâm lễ gồm: một đầu heo, một con gà trống tơ luộc chín, một con sóc nướng, một ống cá liên nướng chín, một con ếch nướng, rượu cần, rượu tavak, hoặc rượu tr’đin, một số bánh sừng trâu, hai hay nhiều ống cơm lam. (lễ phẩm tùy theo điều kiện địa phương mỗi làng); đồng thời biểu trưng một hay hai cây mía nguyên rễ, thân, gốc, dựng bên lều thổ cẩm (chòi lễ). Chủ lễ (thường là chủ làng) và các bậc già làng trong Hội đồng già làng và các vị nói - hát lý, vị trông coi sức mạnh làng (quân sự), những vị này được dân làng kính trọng và tin tưởng gởi gắm niềm tin vào họ. Họ nắm giữ phong tục, tập quán làng đã chuyển hóa thành luật tục thay mặt họ chủ trì lễ cúng, khấn với yang những điều dân làng mong muốn. Yang sẽ lắng nghe những lời khẩn cầu của dân trong làng. 
 Đoạn, chủ lễ dùng sợi chỉ (xe lại bằng sợi bông, hoặc tướt vỏ cây rừng làm chỉ), buộc vào bó lúa, dùng nước tưới lên lúa để hồn lúa được sạch sẽ. Sau nghi thức cột hồn lúa, chủ lễ mời mọi người, những người lớn tuổi trong cộng đồng làng lần lượt lên cúng lúa. Họ khấn xin, đọc lời cầu nguyện, dang hai tay lên trời như là hình thức mong yang tiếp nhận những lời cầu khấn của họ. Đấy là nghi thức cùng với lễ phẩm tạo nên niềm tin thiêng liêng nơi các yang/ thần.
Xưa kia trong lễ cúng yang tại lễ đâm trâu, đàn bà không được đến gươl, chỉ những người trong đội múa da dắ đã được chọn lựa từ trước mới đến gươl và nhập vào không gian thiêng của lễ.
Nghi thức đâm trâu diễn ra trong tiếng hò reo, tiếng chiêng trống, và tiếng hú vang dội rừng xanh. Trâu ngã! 
Chủ lễ cắt một đoạn đuôi trâu (phần cuối đuôi) cùng với con gà trống còn sống đặt vào túp lều thổ cẩm, hoặc ngay tại gốc x’nur, nơi đặt chiếc đầu trâu vừa mới cắt xong, rưới máu trâu vào gốc x’nur, bôi lên cột, cúng thần linh để báo tin trâu ngã thành công . Dân làng tiến về cột x’nur bôi máu trâu lên trán để được yang giúp đỡ, nhận được nhiều may mắn. Cả con gà và đuôi trâu được những người già có uy tín trong làng ném tung lên đúng vào chiếc rổ pà pà trên đầu cột lễ x’nur. Dân làng reo vui, mừng cho điềm lành được yang chấp nhận lời cầu khẩn. Những tiếng hú vang lên, một không gian thiêng bừng tĩnh sắc thái hân hoan giữa đại ngàn. Tẩy rửa mọi u ám ra khỏi tinh thần, nhận được một nguồn năng lượng mới cho sự tái sinh trong một chu kỳ.
      Lễ cúng đến nghi thức ném gà, đuôi trâu lên pà pà xong là kết thúc. Không gian thiêng giãn ra khi điệu múa nghi lễ kết thúc, tiếng trống, tiếng nhạc, tiếng chiêng gian tấu một hồi rồi lặng. Mọi tinh thần tham dự giãn ra. 
Cây nêu được tháo giở. Cả làng bước vào trạng thái mới, hy vọng một năm nữa bình an. Một chu kỳ mới cho thăng hoa phát triển được bắt đầu.

          Cây nêu     
       Cây nêu là hai cây tre được trồng hai bên cột x’nur, đối diện với gươl. Hai cây nêu giới hạn không gian thiêng của lễ tế yang. Trên thân hai cây nêu được các nghệ nhân Cơ Tu trang trí dãy hoa vót bằng tre, hoặc bông dây mây bứt từ rừng về. Tre được vót mỏng, cong lên từng chùm, như những cái hoa, trông đẹp mắt. Tre được đính vào thân tre, tạo cho thân tre có sự chăm sóc kỹ lưỡng. Hai đầu tre, những cụ già thực hiện việc trang trí kéo hai đầu chúm lại, cột níu xuống đỉnh x’nur, khoanh vùng không gian thiêng theo đường cắt như đỉnh núi. Đấy là sự hùng thiêng của núi rừng. 
Sợi dây níu hai đầu ngọn tre lại, trước hết nhìn nhận theo quan niện của con người, rằng đó chính là biểu hiện sự vận động hướng thượng, (như người Ca Dong vậy) cũng như cây nêu, x’nur và những sợi hoa giăng thòng xống đất như những sợi tơ giăng. Sợi dây biểu tượng cho sự cất cánh vươn lên tầm vao mới của người Cơ Tu trên vùng núi non trùng điệp. Dây được thắt lại, tượng trưng cho mọi hình thức phải gắn bó và phải bị ràng buộc với những năng lượng bí ẩn, đôi khi phải nghĩ đến sự thần bí từ sợi dây, cây nêu và cột lễ. Dây nối hai đầu cây nêu biểu trưng cho sức mạnh núi rừng mà con người là chủ thể, biểu hiện bằng sức mạnh vật chất, sợi dây không phải là sự cứng rắn, nó mềm mại như sự cương - nhu của con người với cuộc sống nơi rừng núi. Sợi dây cũng là sự căng thẳng mà người Cơ Tu qua đó tiếp cận với yang tối cao - yang Trời. Đấy là con đường thiêng liêng trong tâm thức người làng, dây nối liền các thành viên trong làng Cơ Tu với thế giới vũ trụ. Đó là con đường dẫn đến sự khấn cầu, sự che chở của các yang/ thần mong cho cuộc sống được bình yên.
Người Cơ Tu níu sợi dây tạo hình răng cưa hay nhô lên thành ngọn núi, là hình ảnh biểu trưng cho sức mạnh phi vật chất, tức sức mạnh tinh thần của con người. Bản thân sợi dây là sự mềm dẻo, không phát ra sức mạnh cứng rắn như vật chất, như mũi tên, mũi giáo mà nó mềm mại mang yếu tố thuộc về nữ tính. Sự căng sợi dây xuất phát từ sự căng thẳng. Sự căng thẳng thể hiện trên tất cả các mặt đối lập mà người Cơ Tu ở vùng rừng núi Trường Sơn phải đối mặt để tồn tại và phát triển.

         Các tượng thờ 
Tượng gỗ Cơ Tu là sản phẩm được làm ra từ hiện thực khách quan bằng sự khéo léo của các nghệ nhân dân gian. Đường nét trên tượng không thể hiện sự tinh xảo bằng những đường nét chi tiết hay đường nét tạo hình phức tạp theo lý thuyết tạo hình. Hầu hết các tượng gỗ đều phản ảnh cuộc sống thực của người Cơ Tu vào tác phẩm điêu khắc gỗ. Từ cây rau dớn đến các loài chim thiêng, con gà, đầu trâu, người, các loài thú,…được tái hiện trên gỗ, thông qua tư duy nghệ thật dân gian, thô mộc nhưng không thiếu phần cảm xúc khi xem một tượng gỗ Cơ Tu.
     Trong số các tượng gỗ của người Cơ Tu, không ít những bức tượng được khắc trổ là hiện thân của những người đã chết. Những tượng như thế không đặt tại nhà ở, mà đặt tại nhà mồ hoặc tại gươl. Tại nhà mồ người ta tìm gặp nhiều tượng gỗ ngồi, chống cằm, nhìn đăm chiêu vào không gian nào xa lắm. Đó là hình ảnh người chết. Thông qua các tượng đặt tại nhà mồ cho thấy phản ảnh tín ngưỡng dân gian của người sống với người chết, họ đang ở chiều kích Dưới đất và sẽ không bao giờ được quay về nhà, về làng (vêêl) nữa. Đối với người Cơ Tu, quan niệm tượng gỗ thể hiện vai trò là người canh giữ ngôi mộ, mộ phần. Cách bố trí các tượng tại nhà mồ thường là chung quanh cổ quan, hoặc đặt bên cạnh, hoặc trên nhà để xác, nơi có thể từ đó giữ được linh hồn người chết. Hoặc người Cơ Tu chạm khắc hình tượng lên cây trụ, dựng gần mộ phần người chết. Tượng nhà mồ có trách nhiệm giữ mộ phần không bị thú rừng, các ma xấu, ma rừng đến hãm hại, gây nên sự chết chóc. Gỗ chạm khắc tượng phải là gỗ tốt, không nát mục để khỏi nghĩ đến hiện tượng rã mục như là sự chết chóc, sự phân hũy. Gỗ càng tốt, ít bị phân hũy nhanh theo thời gian, ít hư hỏng như linh hồn người chết phải tồn tại vĩnh hằng đâu đó mà không bị rã mục. Những tượng đặt tại mộ người chết có khoảng cách nhất định và xem như đây là linh hồn người chết, tạo nên cho họ một cõi tạm để vẫn ở gần người sống và mong rằng các linh hồn sẽ giúp cho cây lúa, cây hoa màu trên đất rẫy, thăng tiến bằng năng lực siêu nhiên có được và đang nắm giữ. Tuy nhiên mặt khác lại không muốn những hồn ma tại các nhà mồ thoát ra đi lang thang đâu đó, hoặc trở thành những ma rừng, hoặc quay về làng sẽ trở nên nguy hiểm cho các thành viên cộng đồng làng. Như thế, các tượng gỗ người Cơ Tu đặt tại nhà mồ có tính đa nghĩa, vừa mong có được sức mạnh giữ gìn sự sống cho người Cơ Tu, nhưng mặt khác lại không muốn các hồn ma thoát khỏi nhà mồ đi lang thang đâu đó trong rừng, trong làng và trở nên nguy hiểm. Bởi những hồn ma như thế không thiếu những ma xấu đi lang thang và gây hại cho làng và các thành viên.  
Những bức tượng khắc gỗ đặt tại nhà mồ cho ta nghĩ rằng, các tượng luôn ở đó là một phần của hài cốt của người chết trong cổ quan tài. Sau thời gian bỏ mả, các gia đình dồn mộ, người Cơ Tu lại chạm trổ bức tượng khác, biểu trưng cho linh hồn người chết. Tượng như sợi dây, là phương tiện kết nối giữ được sự liên hệ với tổ tiên.
Màu của tượng gỗ nhà mồ Cơ Tu thể hiện quan niệm nhân sinh của họ. Màu đen là màu của đất (abhuyh catiếc) màu đỏ là màu của mặt trời (abhuyn plêếng). Đất - Trời là cặp nhị nguyên tạo ra tất cả sự sống và tất cả cái chết.  

           Máu hiến tế 
           Máu dùng tế yang được xem là vật thiêng cao nhất trong lễ đâm trâu người Cơ Tu. 
         Theo cách phân kỳ của người Kinh, ra Giêng, Hai thường là mùa trẩy hội, các làng người Kinh tổ chức nhiều loại hình lễ hội khác nhau: khai rừng (lâm nghiệp), làng nghề (thủ công truyền thống), đình làng (nông nghiệp), cầu ngư (ngư nghiệp), lễ hội tôn giáo tín ngưỡng,…cũng là lúc tộc người Cơ Tu sinh sống dọc theo sườn đông dãy Trường Sơn tổ chức lễ hội đâm trâu, ăn mừng lúa mới. Lễ đâm trâu được thực hiện phổ quát cho hầu hết các loại hình cúng tế của họ. Mừng có gươl mới, mừng lúa mới, kết nghĩa anh em với các làng lân cận, mừng nhà mới, mừng đám cưới, cúng yang trừ ôn dịch,…hầu hết đều có thực hiện đâm trâu dâng cúng lên yang. Trong đó máu là vật lễ cao nhất thiêng liêng nhất trong tâm thức của họ. Không có máu không thành lễ. Vì thế người Cơ Tu nuôi trâu không để giúp nhà nông trong lao động cải tạo nương rẫy, sản xuất lúa, bắp, sắn,… mà chỉ để cúng yang. Làng hay gia đình nào không có phải đi mua, trao đổi nhau giữa các làng hoặc trao đổi với miền xuôi để có trâu cúng tế. Dịp tết, người Cơ Tu tổ chức lễ hội đâm trâu. Bởi không có máu tế yang là xem như chưa dâng hiến gì lên yang để cầu xin, thể hiện đức tin đối với yang trong thế giới ba chiều kích (Trời - Đất - Âm phủ (dưới đất)). 
Quan niệm rằng máu là tượng trưng cho những gì linh thiêng gắn với lửa. Nói ghép “máu lửa” để nhìn nhận trong tâm thức nhân loại rằng máu luôn là cặp song hành với lửa mới thành phạm trù biểu đạt sức nóng và sức sống gần với mặt trời. Trong lễ tế yang, tất cả những gì là đẹp đẽ, hào hiệp, là cao thượng đều gắn với giá trị của máu. Không chỉ người Cơ Tu miền tây đất Quảng mà tộc người Kinh (Việt) miền đồng bằng cũng xem máu là vật thiêng liêng là gạch nối với thần linh. Trước kia người Kinh tế thần tại đình làng cũng quan niệm rằng máu là vật phẩm dâng hiến linh thiêng mà không có gì thay thế được. Máu heo, máu bò, máu dê, máu gà đều là lễ phẩm dâng lên thần và không chỉ là thần mà cả hệ thống thần linh là nam là nữ được phối thờ trong đình làng, tại một địa điểm được cho là trung tâm làng. Không có gì thay thế cho máu khi dâng cúng, cả màu đỏ của máu cũng biểu trưng là nguồn năng lượng mặt trời.  Máu là sự sống. Bởi máu là nguồn năng lượng không thay thế được của loài người. Máu là bản nguyên của sự sinh thành. Người Cơ Tu dâng tế lên yang bằng nghi thức vung vẫy máu lên không trung, hoặc vung vẫy vào vật lễ dâng cúng như trường hợp xin yang cho đất lập làng chẳng hạn. Người chủ làng và cũng là thầy cúng khấn vái đồng thời vẫy máu gà vào vật hiến dâng để xin được toại nguyện. Như thế, quan niệm dân gian các tộc người xem máu là khởi nguyên của vạn vật, mang lại sự màu mỡ cho đất đai, sức khỏe cho con người và no đủ cho toàn thể sinh linh trong cộng đồng làng.
Máu thiêng liêng trong lễ tế nên nhiều tộc người xem máu là vật dẫn linh hồn. Trong nghi lễ hiến sinh làm sao cho máu không đổ xuống đất, tất cả những gì được bôi lên chút máu, như bôi máu lên trán, lên mặt hay lên cây x’nur là tìm được đường dẫn đến với yang. Bấy giờ máu đã thiêng hóa. Người Cơ Tu sau lễ tiết đâm trâu, máu trâu được họ bôi lên trán, lên cây cột tế như thế là lễ tế yang thực hiện thiêng hóa máu dâng để có giá trị biểu đạt.
Thế nhưng, sự biến dịch trong cách nhìn phản ảnh văn hóa tộc người đã có sự biến đổi từ quan niệm tế máu tại cây x’nur. Sự biến đổi muốn thích nghi với sự phát triển chung trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới và với tính chân, thiện, mỹ trong tổ chức lễ tế hiến dâng máu lên yang. Vào mùa xuân Đinh Dậu 2017, đánh dấu sự chuyển đổi vật tế yang bằng hình thức khác thay cho tâm thức ngàn đời xưa của họ về máu trong tâm thức thiêng liêng dâng hiến lên yang. Phóng sự của Thanh Hải trên báo Lao Động ghi lại quan niệm máu cúng yang đã có sự khác trước: “Tất cả 90 làng đồng bào Cơ Tu ở Tây Giang đã đồng loạt bỏ nghi thức truyền thống này” . Những người trong cuộc, ông Bh’riu Liếc xem đây là chuyện cần được tháo bỏ, bởi sự khác nhau của đâm trâu và ăn trâu trong ngôn ngữ Cơ Tu: “Nguyên thủy, lễ hội có giết trâu để hiến tế của người Cơ Tu gọi là đăh t’ri, nghĩa là “ăn trâu” chứ không phải tắc t’rí nghĩa là đâm trâu. Vì vậy, bây giờ giải thích, vận động người dân bỏ nghi thức đâm, thọc trâu dã man kia mà vẫn giữ nghi thức chọc mũi trâu để lấy ít máu hiến tế và làm thịt để mọi nhà đều được chia thịt, ăn trâu là họ chấp nhận ngay. Tết 2017, tất cả 90 làng Cơ Tu ở Tây Giang đều có trâu để ăn từ nguồn hỗ trợ của chính quyền tỉnh, từ tiết kiệm và tiền được trả từ các dự án bảo vệ rừng. Vì vậy, bỏ đâm trâu nhưng làng nước vẫn vui.”
Già làng A Lăng Ruh ở xã Lăng vào tuổi 80 nhưng tỏ ra chấp nhận biến dịch để biến đổi phong tục cổ mà đi cùng cuộc sống đương đại. Ông so sánh: “Làng Bút Tưa, huyện Đông Giang ở gần miền xuôi hơn chúng tôi, mới đây đã bỏ làng để tứ tán lên núi chỉ vì trong làng có cái chết xấu, do có một người trẻ tuổi tự tử bằng cách treo cổ. Để xóa đi cái chết xấu, họ đã đâm trâu hiến tế cúng xin yang đẩy lùi ma xấu khỏi làng. Dẫu làm vậy, nhìn lại làng Bút Tưa có hiến tế bao nhiêu trâu thì đời sống cộng đồng vẫn khốn khó, lại càng khó hơn khi bỏ nhà xây kiên cố để sống trôi dạt bằng túp lều tranh cạnh bìa rừng, trên núi. Ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, nhiều gia đình người thiểu số lâm nợ, tái nghèo chỉ vì tốn quá nhiều cho việc mua trâu để hiến tế khi nhà có việc trọng đại. Vì vậy, tôi thấy bỏ đâm trâu, trước mắt là bỏ gánh nặng cho dân nghèo. Về lễ nghi các sự kiện văn hóa của tộc người Cơ Tu như thọc mũi trâu để lấy máu hiến tế, cúng như truyền thống vẫn duy trì. Múa tâng tung, da dắ vẫn giữ, chỉ khác là việc giết thịt thì làm bình thường, không giữ hành động đâm, thọc tàn nhẫn với trâu mà thôi”.

         Đầu trâu
        Đầu trâu là biểu tượng của tính thiêng, không chỉ trong lễ đâm trâu mà cả trong trang trí trên nóc gươl, trong gươl, tại nhà mồ, đầu trâu có vị trí quan trọng trong tín ngưỡng tâm linh của người Cơ Tu. 
         Khi trâu ngã, đầu trâu (cả sừng) được cắt ra đặt nơi gốc x’nur để báo với yang rằng trâu hiến tế đã ngã, và đây chính là lễ phẩm dâng lên yang, mong yang chấp thuận. Kèm với đầu trâu là máu trâu được bôi lên phần gốc x’nur, hiến tế lên yang. Biểu tượng của tính thiêng đó, người Cơ Tu nhìn nhận trong tổng thể một cuộc đâm trâu với nhiều lớp nghĩa từ các vật thiêng. Họ có thể tìm kiếm ở đó nhiều lời giải đáp cho một hiện tượng trong cuộc sống thường ngày. Nhưng tựu trung là tìm kiếm sự may mắn cho cộng đồng, cho gia đình và cá nhân họ không bệnh tật, chết chóc và đói khổ.
Trong lễ hội đâm trâu diễn ra các thành tố nghi lễ mừng lúa mới (cha roo tơ mêê), một lễ lớn nhất trong năm, lễ cúng hồn lúa được mùa (bhuối a ví), hoặc mừng gươl mới (lang tơ rí), mừng lập làng mới và từ sau năm 1950 thêm lễ kết nghĩa anh em giữa các làng Cơ Tu. Đây là lễ hội mang ý nghĩa đem lại tính cố kết cộng đồng làng được xem trọng, các làng kết nghĩa không còn thù hận nhau như trước đây trong tục nợ đầu lấy máu tế yang.
     Các con vật thiêng 
     Chim t’ring (toucan). 
        Biểu tượng chim t’ring trên hai đầu nóc gươl - nhà cộng đồng, nhà chung - hay trên hai đầu nóc nhà ở của người Cơ Tu - là biểu tượng thể hiện cho mối liên hệ giữa Trời - Đất. Chim cũng được hiểu theo nghĩa trong tiếng Hy Lạp là thông điệp của Trời và từ Trời. Các bậc yang, thần linh thường biến thành chim làm nổi lên tính tinh nhẹ của chim. Đấy cũng được hiểu là sự nhẹ nhàng chao lượn của các yang/ thần mà người Cơ Tu thờ cúng. Sự nhẹ nhàng cũng được hiểu theo nghĩa là cần trút bỏ những gì nặng nhọc để tìm đến những gì nhẹ nhàng trong cuộc sống nhiều lo toan tất bật để mưu sinh ở cõi trần.
       Các hình tượng về thầy cúng của Cơ Tu hay hình tượng các vũ nữ múa da dắ được biểu trưng bằng hai cánh tay gắn trên cây cột x’nur hay cây cột cái giữa gươl nhằm biểu hiện điều mà người Cơ Tu bay lên, gởi lên Trời những nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh làm cho nhẹ nhàng cuộc sống trần gian. Theo đó, biểu tượng chim t’ring là hình ảnh linh hồn thoát xác, hoặc biểu hiện trí tuệ của tộc người thuần túy đó là tìm đến cái nhẹ nhàng. Một số biểu tượng chim t’ring thường gặp được khắc chạm, cài đặt hoa văn hình dáng lá cây hoa a tút hay cái hoa hình chong chóng của nó trên x’nur, trên cột rmăng giữa gươl đều được hiểu thể hiện chức năng biểu đạt thuần túy cái nhẹ nhàng. Đấy là thể hiện tinh thần lúc thăng hoa.
Biểu tượng chim, trong đó có loài chim t’ring, biểu tượng thuần khiết tinh thần của tộc người Cơ Tu luôn đối lập với loài rắn. Thế nên có thể tìm gặp chim t’ring bắt rắn làm mồi, hoặc đấu tranh sinh tồn với loài rắn độc. Hai biểu tượng này được đồng thời khắc chạm, thể hiện trong một không gian văn hóa. Đó là gươl, nơi mà ở đó người Cơ Tu kính cẩn mời các yang, tổ tiên về ngự tọa.

Gà trống
Con gà trống được biết đến và hiểu như thể biểu tượng của sự kiêu căng. Hãy nhìn dáng đi của gà trống cũng hình dung ra cái sự kiêu căng ấy trên toàn thể hình của gà. Từ hình ảnh biểu trưng của con gà trống (gallus) và người Gaulois và một số nghệ thuật tạo hình thời La Mã cho thấy gà trống là biểu tượng, tượng trưng của mặt trời, bởi tiếng gáy của nó lúc bình minh báo hiệu đêm tối lui dần và ngày rạng rỡ ban mai khi mặt trời sắp mọc. Tiếng gáy của nó đánh thức bình minh. Và do đó ta gặp con gà trống trên cây x’nur của người Cơ Tu hay trên nóc gươl hoặc đâu đó trên các bức gỗ chạm khắc hình ảnh con gà tạo nên một phù điêu trang trí chung quanh gươl, thể hiện thế giới quan sinh động của tộc người Cơ Tu về hình ảnh của mặt trời - hiện thân của năng lượng mặt trời cần thiết cho sự sống. Đa nghĩa hơn, có thể tìm thấy hình ảnh của yang tối cao - yang Trời là một trong ba chiều kích thể hiện thế giới quan của tộc người.      Tiếng gáy của nó làm thức tĩnh, được cho gắn với tiếng hát ca, reo vui của các yang, làm cho yang Trời phải rời khỏi cõi Trời để đến với tộc người trong các lần lễ tế diễn ra, trong đó quan trọng hơn cả là lễ đâm trâu của họ. Từ đó, có thể hiểu sự phát lộ ánh sáng mặt trời trong lúc mặt trời xuất hiện soi sáng trái đất - trần gian - con người nhờ đó có sự đón nhận ánh sáng để thăng hoa sáng tạo. Chính đó, ta tìm gặp biểu tượng con gà trống được chạm trổ và tô vẽ rất đẹp dưới bàn tay của các nghệ nhân dân gian Cơ Tu, tạo dựng hình ảnh con gà trống với dáng vẻ hiên ngang, cứng cỏi. Bởi thế, người Cơ Tu nhìn thấy ở gà trống điềm lành, theo đó máu gà hay chân gà thường dùng để tế các yang, xem vật đoán việc theo kiểu coi giò gà. Giò gà là hình ảnh trong thuật bói toán của người Kinh. Gà báo hiệu ngày mới, nó luôn chống lại cái không tốt của đêm đen. Đặt con gà trống vào điểm tacoai trên nóc gươl được cho là gà sẽ xua đi ô uế, sự mờ ám, cái đen tối ra khỏi làng, khỏi nhà, ra khỏi cộng đồng làng.
Trong đời sống thường ngày, gà trống là biểu tượng của giải quyết những bất đồng giữa cá nhân hoặc cộng đồng. Người Cơ Tu xưa kia tin rằng để hòa giải những mâu thuẫn trong cuộc sống, chủ làng chủ trì việc chặt đầu gà trống để phân biệt đúng sai. Luộc con gà trống cúng yang, xong đem ra chặt đầu gà, đầu gà rơi về phía bên nào, bên đó đúng. Gà trống còn đi vào đại lễ, như lễ cưới, nhà gái mang đến nhà trai không thể thiếu con gà trống tơ, luộc chín. Thầy cúng xem đầu gà (a cọ) có hay không có lỗ thông. Nếu lỗ thông mà lớn, việc hôn nhân có nhiều hạnh phúc và ngược lại. Nếu không lỗ thông nơi hai bên đầu và hốc mắt, nhà trai hũy việc cưới, cho rằng vợ chồng không tâm đầu ý hợp.  
          Theo đó, có thể thấy biểu tượng gà trống đi vào đời sống tín ngưỡng của người Cơ Tu quan trọng thế nào, nên họ tạc tượng để thể hiện niềm tin vào Trời - Đất và các đấng yang linh thiêng ứng nhập vào gà để họ hóa giải những khó khăn thường gặp trong cuộc sống của các thành viên và cả cho làng.

          Cây mía trong tín ngưỡng dân gian Cơ Tu
        Trong không gian thiêng của những lần tế yang vào lễ  đâm trâu mừng lúa mới, lễ ăn thề kết nghĩa anh em, lễ mừng gươl hay mừng nhà mới, người Cơ Tu trong tâm thức luôn hướng về yang với hệ thống thần linh được thờ cúng tại gươl. 
Trong thực hiện nghi lễ, múa tâng tung da dắ đã trở thành múa nghi lễ cúng yang. Đội hình múa có dụng cụ bổ trợ gồm trống ca thu, trống chơ gơ, cồng chiêng, cái khiên, giáo, lao, dụ, thanh kiếm, biểu tượng không gian thiêng như một cây rừng nên không thiếu cây mía được chọn lấy nguyên cây cả rễ, thân và lá, và cây rung rang được thể hiện như bái vật biểu đạt sự giao tiếp với yang/ thần linh.
Tục cây mía trong tín ngưỡng dân gian người Cơ Tu dâng lên yang là biểu tượng đặc trưng của cư dân trồng lúa khu vực Đông Nam Á.  Tín ngưỡng thờ cây mía gắn liền với văn hóa nông nghiệp.
 Người Cơ Tu trong lễ hội đâm trâu chọn cây mía lớn, nhiều lóng (đốt), có đủ lá và cả rễ. Nghĩa là có đủ nguyên cây và không có sâu đục phá. Cây mía trong tín ngưỡng Cơ Tu cũng như các tộc người khu vực văn hóa nông nghiệp là biểu hiện sự kết nối. Kết nối được hiểu cả ba tầng: phần tán, thân và gốc rễ. Đây là biểu trưng của sự kết nối liên thông, giao hòa giữa Trời - Đất và - Dưới đất, kết nối và làm xích lại gần hơn ba tầng vũ trụ theo quan niệm vũ trụ quan của tộc người Cơ Tu miền tây đất Quảng. Tán lá là biểu trưng của mây trời, gốc rễ biểu trưng cho đất và nước, thân mía biểu trưng cho sự liên thông giữa ba tầng Trời - Đất (Người) và Dưới đất (cội nguồn gốc rễ). Những lóng mía như những bậc thang liên kết và hướng dần lên với mây trời, để ở đó con người đón nhận ánh sáng, trời mây và năng lượng vũ trụ từ sự ban phát của yang. Và tán cây mía là biểu trưng đón nhận linh hồn yang tối cao, linh hồn tổ tiên về chung vui cùng con người vào những ngày dân làng mở hội ăn mừng lúa mới, mừng một năm được mùa no đủ, dân trong làng không đau ốm, không có người chết xấu,…
Sau những ngày lễ hội tưng bừng, cây mía bấy giờ là biểu trưng cho chiếc đòn gánh, gánh những thành quả con người dân cúng lên yang, và tổ tiên trở về cõi tiên với những món quà con cháu dâng lên. Và dọc đường về với Trời không ít những ma xấu theo phá hoại, giành giật, cây mía là vũ khí chống trả. Cây mía còn là con đò qua sông mỗi khi gặp phải sông sâu, ghềnh thác. 
Cây mía có vị ngọt, là niềm tin, là ước vọng cuộc sống sinh sôi nảy nở. Vị ngọt cuộc sống được liên tưởng đến mía, theo đó, cây mía trong lễ hội đâm trâu là thành tố ngọt ngào đem lại hương vị thanh tao, nguồn sống dồi dào và năng lượng được nhân lên để người Cơ Tu trụ bám núi rừng Trường Sơn tồn tại và phát triển.
          Cây tập hợp thành rừng, thực vật là biểu tượng phong phú và phổ biến, là vũ trụ sinh sôi trong tái sinh liên tục. Theo đó, cây mía là biểu trưng về một bản thể của tự nhiên, vượt lên, đây chính là bản thể của sự thăng hoa, dâng hiến, chính bản thể đó là đối tượng mà người Cơ Tu hay cư dân khu vực văn minh nông nghiệp thờ cúng. Từ chỗ đó, ta thấy người Cơ Tu tiến hành múa nghi lễ có một thanh niên cường tráng nắm cây mía và múa theo nhịp điệu chiêng rung, trống điểm. Thế nên gọi múa tâng tung da dắ là điệu múa “dâng trời” đúng với ý nghĩa và bản chất của múa. Bởi xưa kia, trên hai tay người phụ nữ múa da dắ, có đặt chiếc lá mà trên đó là thịt, xôi, cơm,… dâng Trời. Cây nói chung và cây mía nói riêng trong tín ngưỡng dân gian Cơ Tu là biểu tượng của sự sống, sự vươn lên trên nữa về phía Trời. Cây mía theo chiều thẳng đứng, nhưng đồng thời cây mía cũng là hình ảnh biểu trưng cho sự chết và sự tái sinh. (Cây mía dễ trồng và dễ tái sinh). Mặt khác trong quan niệm của cư dân nông nghiệp, cây nói chung là sự tuần hoàn như một sinh vật, có tiếp nhận và có thải hồi, có rụng lá ra hoa rồi nẩy lá, đâm chồi. Cây mía là tượng trưng cho ba cấp bậc theo quan niệm của người Cơ Tu về vũ trụ: không gian trên cao đó là Trời - Thân mía với những lá non nhô lên để rồi vươn lên tầng cao mới, nơi những chiếc lá non lấy ánh sáng mặt trời, đấy là nơi Đất ở - và tầng Dưới đất là cội rễ, cắm sâu và giấu mình. Trên rừng núi Trường Sơn, dưới tán cây chim muông bay nhảy, các loại côn trùng bò sát cuộn mình trong bộ rễ của cây. Cây mía hay cây nói chung là sự tập hợp các thành tố: nước lưu thông, tuần hoàn, đất hòa nhập với thân qua bộ rễ cắm sâu vào lòng đất ẩn mình còn không gian trời mây nuôi dưỡng lá.
Như thế, theo quan niệm Trời - Đất - Dưới đất, cây mía của người Cơ Tu trong lễ hội đâm trâu là biểu trưng cho mối quan hệ đã được thiết lập giữa Đất - Trời như con người thiết lập quan hệ với yang và với tổ tiên.  

        Hòn đá trong tín ngưỡng Cơ Tu
Đá trước hết gắn với đời sống, con người sử dụng đá đầu tiên làm công cụ lao động, tác động vào môi trường sống tự nhiên, đá tạo ra lửa phân cách con người ra khỏi thời mông muội. “Đá tham gia vào mọi hoạt động sinh hoạt, lao động của con người. Sự gắn bó của con người với đá trong xã hội nguyên thủy, người ta thấy rằng: giữa đá và linh hồn con người có mối liên quan chặt chẽ. Đá cũng là sự sống, cũng có phần hồn, phần xác như con người và đá có thể là nơi trú ngụ cho linh hồn con người, cũng như trong thực tế, thân xác con người sống trong đá và chết có khi cũng nằm trong đá”  . Quan niệm đó được huyền thoại hóa thành những câu chuyện ở nhiều dân tộc. “Trong truyền thuyết, đá chiếm một vị trí trang trọng. Giữa linh hồn con người và đá có mối liên quan chặt chẽ. Theo huyền thoại về Promete, ông tổ loài người, có các loại đá vẫn giữ được hơi người.”   Như thế, đá có mối quan hệ gắn liền với nơi cư trú của các dân tộc và là dạng kết tinh, đóng vai trò quan trọng trong mối liên hệ giữa Trời - Đất - Dưới đất. Người Cơ Tu xem đá là vật thiêng được thờ cúng tại gươl, nơi đó là chốn ngự tọa của các yang/ thần bảo vệ tộc người, đá ngăn chặn những điều xấu có thể làm hại con người. Đá là vật thiêng (thường là hòn đá), người Cơ Tu cất đặt trong gươl, xem như một loại bùa hộ mạng dân làng, dòng họ và mỗi người. Huyền thoại Cơ Tu được nhắc đến trong truyện cổ Tầm Mò Zòi với nhân vật cùng tên, được xem là thần khổng lồ ẩn thân trong một tảng đá lớn. Tầm Mò Zòi đã cứu giúp dân làng thoát cảnh bị cướp bóc. Thần còn trị nhưng kẻ ác, gây hại cho người khác. Hay truyện kể Sự tích dinh Bà cho thấy “đá là nơi trú ngụ của linh hồn và đá còn có thể là nơi trong thực tế, thân xác con người sống trong đá và chết có khi cũng nằm trong đá.” Kể rằng: “Ngày xưa, ở vùng rừng núi Giằng có một làng người Cơ Tu sinh sống. Trong làng, có một người đàn bà sinh được một đứa con trai. Khi bà ra rừng sinh đẻ, người chồng đi vắng tận một làng rất xa, không về kịp. Lúc đứa bé ra đời, bà vẫn khoẻ mạnh. Bà ăn vẫn bình thường, nhưng có điều lạ, là uống bao nhiêu nước cũng thấy khát. Hết bầu nọ tới bầu kia, bà cứ uống mãi. Dân làng mang bao nhiêu nước cho bà, vẫn không đủ.
Một đêm, vào lúc khuya về sáng, trong nhà cạn không một giọt nước. Khát quá, không chịu nổi, bà bồng con xuống sông uống nước. Từ nửa đêm cho tới tận sáng, bà cứ cúi mặt xuống sông uống mãi, uống mãi. Rồi bà chết ngay bên bờ sông tay vẫn ôm chặt đứa con. Khi dân làng ra bờ sông, thì xác hai mẹ con bà khát nước kia đã hoá thành đá. Người chồng trở về. Cách làng một đỗi xa, ông đã nghe tin vợ con chết. Vừa giận cho số phận, vừa thương vợ con, ông ta dẫm nát cái bè gỗ đang đi, và cái bè từ từ chìm sâu xuống nước, mang theo cả người chồng bất hạnh.
Ít lâu sau, cả người và bè biển thành một khối đá lớn, trồi lên ngay giữa dòng sông. Dòng nước chảy qua tảng đá, phát thành tiếng vang động cả khúc sông. Vào những ngày mưa gió, dân làng ở cách xa dòng sông nghe tiếng nước réo, bảo đó là tiếng của người chồng khóc thương vợ con.Về sau, dân chúng gọi tảng đá kia là đá ông Ồ Ồ. Còn hình mẹ con người đàn bà chết hoá đá, có hai chiếc vú đá, thì chỉ còn một chiếc chảy nước. Có người bảo là chiếc vú kia bị người đời sờ vào nên đã tắt đi dòng sữa. Những người Kinh và Thượng đi qua khúc sông ấy đã lấy đá xây nên một cái miếu thờ, thường đốt đèn nhang cầu cho qua lại trên sông nước được bình yên.”
Trước kia, khi chưa tìm ra được các loại công cụ lao động như hiện nay, người Cơ Tu sử dụng đá như là công cụ, bởi đá rắn chắt. Do đá cứng rắn, con người có thể dựa vào đó thể hiện tính cứng rắn của mình trên vùng rừng núi. (Xưa kia người Cơ Tu rất cứng rắn trong các mối quan hệ bên ngoài làng). Đây là đặc trưng xã hội nông nghiệp vì đá như thế nên xem là có yang ngự tọa trong đá. Đá còn là biểu tượng hai mặt tinh thần và vật chất, trong đó tinh thần chính là phần hồn biểu trưng cho đời sống tinh thần người Cơ Tu, đây là điều vĩnh hằng luôn tồn tại. Và từ đó, yếu tố ma thuật được sử dụng để các hòn đá thờ tại gươl luôn có linh hồn, trừ khử những điều không tốt ám hại tổ tiên họ và cộng đồng làng. Và từ đá, là vật thiêng nên có năng lực  thông liêng giữa Người - Trời - Đất tạo nên mối giao cảm trong những lần ăn mừng lúa mới, mừng sau chu kỳ lao động con người được bình yên, mừng được mùa lúa bắp và nhất là không mắc phải bệnh tật, không xuất hiện những cái chết xấu ám ảnh đầy ấn tượng trong cuộc mưu sinh của họ. Đá như thế là cách biểu trưng như một loại bùa hộ mệnh.
Đá thờ tại gươl, người Cơ Tu còn thể hiện sự cầu mùa, cầu mưa nắng thuận hòa, bởi linh hồn tổ tiên đã ngự tọa trong đá, nơi đó, tổ tiên họ đã trú ngụ cả ngàn năm, đã tạo nên sức mạnh cho họ. Cho nên hòn đá được thờ cúng,  giữ lấy là vật thiêng tạo ra mưa nắng, khai hóa tộc người, thăng hoa trong cuộc sống. Theo đó, đá là biểu trưng của yang, của tổ tiên, các vị anh hùng lập làng đều ngự trị trong biểu tượng đá. Người Cơ Tu từ đó hình thành quan niệm đá cho họ sức mạnh tinh thần nên đá là đối tượng cần phải được thờ cúng trong thế giới đa thần của cư dân nông nghiệp.

Rung rang trong múa nghi lễ
Trong điệu múa tâng tung da dắ của người Cơ Tu vào những dịp tế lễ thần linh, trong đó quan trọng và lớn hơn cả là lễ đâm trâu ăn mừng lúa mới. Múa có cây rung rang, cùng với cây mía là biểu trưng cho sự giao lưu trời - đất - con người và tầng dưới đất. Trước đây, múa tâng tung da dắ thường chỉ để cử hành trong thực hiện các nghi lễ - nên còn gọi múa nghi lễ, tín ngưỡng - mà chưa phổ biến trong cộng đồng với tư cách là một điệu múa hội hè, vui chơi, giải trí như hiện nay. Thời nay, điệu múa tâng tung da dắ đi vào sinh hoạt cộng đồng, từ vui chơi giải trí, hội hè đình đám dân làng và cá nhân mỗi hộ gia đình, đến nghi lễ dâng trời, múa tâng tung da dắ là một thành tố cấu thành quan trọng và không thể thiếu trong lễ hội đâm trâu (lễ ăn mừng lúa mới). Trong xây dựng nông thôn mới, thực hiện lối sống văn hóa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội từng vùng, điệu múa tâng tung da dắ có sự chuyển đổi tên gọi, từ múa đâm trâu dần chuyển dịch thành múa ăn mừng lúa mới.
Múa là hình thức thể hiện nghi lễ không thể thiếu của người Cơ Tu trong lễ tế yang/ thần linh. Múa của người Cơ Tu có hai phần: 1/ Phần múa của nam là tâng tung; 2/ Phần múa của nữ là da dắ. 
Trong múa tâng tung, người đàn ông Cơ Tu đóng khố hoặc choàng tấm tút từ vai xuống lưng, đôi khi quấn thành hình chữ X trước và sau thân người. Những lễ tế yang Trời, người múa tay trái nắm cái khiên, tay phải nắm thanh kiếm, hoặc cây giáo lưỡi cha chí. Tiến trình múa sử dụng tiếng trống chơ gơ và ca thu làm nhịp. Thường là nhịp đi hùng tráng và mạnh mẽ.
Múa da dắ của nữ lung linh và luôn uyển chuyển như cây lau, cây mía giữa gió trời. Tiến trình múa chân đứng thẳng khoan thai, đôi tay đưa ngang vuông góc với cánh tay lên khỏi đầu. Bàn tay ngửa lên trời, các ngón tay hướng về phía sau. Đôi tay như chống đỡ cõi Trời, đồng thời dâng hiến lên cả bầu trời những ước vọng bình yên của con người. Đôi tay đưa lên trời như hai chiếc sừng trâu, biểu trưng của đầu trâu máng nước, biểu hiện sự hiến dâng và hiến tế của người Cơ Tu lên hệ thống yang, và các đấng thần linh. Và vì trên hai tay người phụ nữ có đặt miếng lá dong với thịt, xôi, cơm, bánh,… khi thể hiện múa nên múa còn được gọi vũ điệu dâng Trời - điệu múa được cách điệu từ động tác dâng lễ vật lên yang thời xưa của người Cơ Tu. Lễ vật được đặt trên tay múa da dắ là thịt, xôi, bánh, trái,… dâng mừng lên các đấng tối cao. Sự phối hợp giữa tâng tung với da dắ bằng những bước nhảy xiên, nhảy trượt ngang, nhảy xoay lật, nhảy nhún nghiêng, nhích người và quay lượn, tạo nên đường nét của múa sinh động, ngôn ngữ múa thể hiện dáng vẻ, nguyện vọng, ý chí thông qua biểu đạt bằng động tác múa, tạo nên hình tượng múa Cơ Tu thanh cao và đầy sức sống hiến dâng Trời. Theo đó, múa tâng tung da dắ trước hết là múa nghi lễ dâng Trời.
Cây rung rang được sử dụng trong nghi lễ ăn mừng lúa mới, trước hết được hiểu rung rang là biểu tượng của sức mạnh thần thánh mà con người thu nhận được. Những bái vật như rung rang trong thực hành nghi lễ có yếu tố ma thuật nhờ vào sức mạnh mà người ta tin rằng sức mạnh đó được ngự trị trong bái vật. Từ cây rung rang - xem là bái vật - được truyền năng lực từ vị thầy cúng - hoặc một người có uy tín nhất trong làng nắm giữ rung rang, giữ quyền năng của sức mạnh thần thánh của thế giới đa thần. Linh mục Cadière, người Pháp đến Việt Nam với tín ngưỡng đơn thần tìm hiểu người Cơ Tu, ông viết: ‘‘… là thờ cúng quỷ thần. Tôn giáo này không có lịch sử vì nó có ngay chính từ nguồn gốc nguyên thủy của giống nòi. Quỷ thần ở khắp mọi nơi. Chúng bay nhanh trong không trung và đến cùng với gió. Chúng tiến lên bằng đường bộ hay đi xuống theo dòng sông. Chúng trốn dưới đáy nước trong những vực nguy hiểm cũng tài giỏi như trong những ao yên tĩnh nhất… Đúng là những tín ngưỡng này cũng gặp trong những truyền thống dân gian ở tất cả các xứ và khác thường khi nghe những chuyện ma khủng khiếp.’’ 
Và vì thờ cúng sức mạnh yang/ thần và quỷ dữ nên  người thầy cúng được cộng đồng chấp nhận thay mặt dân làng tế lễ, nêu lên nguyện vọng trước yang/ thần linh. Họ cho rằng các vị thầy cúng (chủ lễ một hiến tế) được trao giữ năng lực siêu nhiên, nắm rung rang nhảy múa trong nghi lễ dâng trời.
  Rung rang là vật truyền dẫn sức mạnh ma thuật.
Như thế rung rang có liên quan đến đời sống tâm linh của người Cơ Tu. Rung rang là phương tiện vật chất quan trọng do con người thiết lập nên trong nghi thức múa tâng tung da dắ của người Cơ Tu. Thông qua bái vật rung rang, được cho là hiện thực hóa tư duy con người mà trong quá trình thực hiện điệu múa, rung rang tác động vào giác quan con người làm cho con người tri giác được hiện tượng thần thánh, ma thuật, lý giải về nó được và suy diễn, tìm kiếm được sự bình an vĩnh hằng nằm ngoài cái rung rang trong nghi thức múa. Người Cơ Tu sử dụng rung rang trong điệu múa dâng trời, bởi rung rang đại diện cho ma thuật, là sự giao lưu Trời - Đất và Dưới đất. Đấy là sự liên tưởng ra thế giới an bình, không chết chóc mà người Cơ Tu liên hội ra từ rung rang được sử dụng phối hợp trong múa nghi lễ tâng tung da dắ (tơntúng dadăq).
Theo đó, trong tất cả những lần múa nghi lễ, múa tâng tung da dắ (tơntúng dadăq) đều có biểu tượng rung rang trong vòng tròn múa. Bên cạnh còn có hệ thống nhạc lễ mà cồng chiêng là nhạc cụ quan trọng trong tiến trình thực hành nghi lễ; lại còn có múa nghi lễ hỗ trợ, lúc nhịp nhàng sâu lắng, lúc dữ dội trầm hùng, lúc cầu khẩn thiết tha để việc dâng cúng mang tính thiêng hóa như là tôn giáo tín ngưỡng. Theo các vị già làng ở Tây Giang, Đông Giang, xưa kia trên tay người phụ nữ múa da dắ có đặt chiếc lá mà trên lá là lương thực: thịt, xôi nếp, bánh,… dâng trời. Theo đó múa tâng tung da dắ còn được gọi là điệu múa dâng trời. Biểu tượng rung rang được một người đàn ông Cơ Tu mặc áo vỏ cây cầm bái vật và nhảy múa cùng với điệu múa phối hợp giữa nam tâng tung và nữ da dắ. 
Chúng ta tìm gặp trong đời sống tinh thần người Cơ Tu thể hiện đời sống văn hóa của họ thông các các biểu tượng, như cây mía, hòn đá, đầu trâu, cây rau dớn, con gà trống, bái vật rung rang, thần rắn,… Ở đó, người Cơ Tu bảo tồn được tâm lý và năng lực giữ gìn đặc trưng văn hóa cùng với những nhận thức sâu xa nằm ngoài duy lý tộc người, bởi tính đa nghĩa của biểu tượng. Và vì tính đa nghĩa nên mỗi cách nhìn, cách nhận thức vào biểu trưng văn hóa của mỗi người cũng khác nhau. Những đặc trưng văn hóa đó có nguy cơ mất đi và bị loại bỏ trong tiến trình lịch sử và cập nhật, cho nên biểu tượng như là việc cố gắng thể hiện lại dấu hiệu văn hóa được thể hiện ra bên ngoài và truyền đạt lại cho người đời sau về ý nghĩa của văn hóa thông qua biểu tượng biểu trưng về các thành tố văn hóa để cấu thành sinh hoạt văn hóa tộc người Cơ Tu trong lịch sử phát triển. Ngay trong các biểu tượng, người Cơ Tu nhận thức được sự kế thừa và sáng tạo ra văn hóa dưới góc độ dân gian. Sự sáng tạo đó mang dấu ấn cá nhân, họ đã biến nội dung văn hóa người Cơ Tu được tích lũy trong cả quá trình phát triển thể hiện trong biểu tượng để rồi ngay trong các biểu tượng văn hóa ám chỉ những khởi đầu cho sự phát triển và sáng tạo của các thế hệ người Cơ Tu tiếp truyền sau. Hiện nay, những biểu tượng, tượng trưng văn hóa dân gian tộc người Cơ Tu đã có sự chuyển dịch, biến đổi và sáng tạo thêm, đủ khả năng biểu đạt nội hàm văn hóa đương đại đang từng bước tác động vào nhận thức cộng đồng làng và mỗi cá nhân trong cộng đồng đó. Điều nhận ra rằng không nên đánh đồng văn hóa dân gian Cơ Tu với các biểu tượng biểu trưng văn hóa (cũng được xem biểu tượng là một thế giới văn hóa), bởi văn hóa do con người sáng tạo ra một cách toàn diện do nhu cầu sinh tồn của mình, đồng thời tồn tại và phát triển thông qua tính sáng tạo của con người. 

Không có nhận xét nào: