Võ Văn Hòe
Trong
lao động và cùng với lao động, người Chăm cũng như các dân tộc khác tại miền Trung Việt Nam sản sinh ra nền ca múa cho
dân tộc mình. Đối với người Chăm, cộng đồng Chăm Ahiêr (tức Chăm theo đạo
Bà-la-môn) được xem là chủ thể sáng tạo ra nền nghệ thuật ca múa nhạc dân gian
Chăm. Và bước nối tiếp là cộng đồng người Chăm Awal (tức người Chăm Bà ni – Hồi
giáo đã được Chăm hóa). Từ hàng nghìn năm trước, ngay sau khi độc lập (năm 192
sau công nguyên), người Chăm đã tiếp nhận Bà-la-môn giáo và sau là ấn Độ giáo,
từ đó, thiết lập nên văn hóa mang tính chất cung đình Chăm, trong đó nổi trội
rực rỡ là kiến trúc và điêu khắc Chăm. Còn đối với người dân tầng lớp thấp, họ
vẫn phải vừa duy trì các nghi lễ cúng tế của Bà-la-môn giáo, đồng thời phải giữ
văn hóa bản địa. Vì vậy, ca múa nhạc dân gian Chăm vừa mang các thành tố của
tôn giáo Ấn Độ, vừa mang những truyền thống bản địa của cư dân nông nghiệp Đông
Nam Á. Đến sau thế kỷ thứ XI, người Chăm lần lượt du nhập Hồi giáo đến từ
Indonesia, và họ cũng đã từng bước Chăm hóa Hồi giáo để biến Hồi giáo thành đạo
Bà ni, hình thành nên cộng đồng Chăm Bà ni Từ đây có sự hỗn dung trong văn hóa,
hình thành nên tôn giáo bản địa.
1. Để phụng cúng thần linh, cùng với múa là ca nhạc dân gian, nên trong dân
gian thường nói "ca múa nhạc". Múa phải có nhạc đi liền nhau Với âm nhạc dân gian Chăm, các hoạt động ca múa của người
Chăm xa xưa đã đạt trình độ nghệ thuật dân gian cao, thể hiện qua các hình
tượng điêu khắc trên đá. Theo Dương Quảng Hàm trong sách “Việt Nam
văn học sử yếu” mục Nguồn gốc các lối ca Huế, chép về nguồn gốc các lối ca
này có hai thuyết. Một là: nhiều
người cho rằng các lối ca Huế là do ta phỏng theo các ca khúc của người Chiêm
Thành mà đặt ra. Nay xét trong Nam sử, thấy chép hai việc sau này: Năm 1044
(Thiên cảm Thành vũ nguyên niên), vua Lý Thái Tôn đi đánh Chiêm Thành (…) rồi
vào thành Phật Thệ (nay ở xã Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên),
bắt vợ, thiếp cùng cung nữ của vua Chiêm biết múa hát khúc Tây Thiên về. Khi
về, ngài sai làm cung riêng cho các cung nữ ấy ở. Lại năm 1202, năm Nhâm Tuất
là năm Thiên Tư Bảo Hựu nguyên niên (thứ nhứt), vua Lý Cao Tôn/Tông sai nhạc
công soạn ra nhạc khúc mới gọi là Chiêm Thành âm, tiếng sầu oán thương xót,
nghe đến phải khóc. Đại Việt sử lược
chép rằng: "Mùa đông, tháng 10, vua đi chơi ở hành cung Hải Thanh. Ở đây
đêm nào cũng sai nhạc công khảy đàn Bà Lỗ, xướng điệu hát phỏng theo nhạc khúc
Chiêm Thành, âm thanh ai oán thảm thiết buồn bả oán hờn. Những kẻ tả hữu nghe
đến đều nghẹn ngào rơi lệ" [[1]].
Xem những việc chép trong sử ấy thì biết ta có tiếp xúc với ca nhạc của Chiêm
Thành và có ảnh hưởng phần nào đó của nền ca nhạc ấy. Sau này, nỗi buồn rầu,
lòng cảm cựu thổ lộ trong giọng hát, cung đàn nên có nhiều vẻ não nùng ai oán
truyền sang ca nhạc của ta. Hai là:
có người lại cho rằng các ca khúc của ta phỏng theo các từ khúc của Tàu mà làm
ra. Xét ra thì các điệu ca Huế có thể chia làm hai loại: một là những điệu hát
Nam (từ phương Nam lại); giọng réo rắt, như các điệu Nam ai, Nam thương, Nam
bình, Vọng phu v.v., hai là những điệu hát Bắc (từ phương Bắc lại), giọng vui
vẻ như các điệu Cổ bản, Kim tiền, Tứ đại cảnh, Phú lục, Lưu thủy, Hành vân,
v.v. Các điệu hát Nam có lẽ chịu ảnh hưởng của Chiêm Thành, còn các điệu hát
Bắc có lẽ phỏng theo từ khúc của Tàu mà ra [[2]].
Trần Bá Việt trong sách “Đền tháp Chămpa
bí ẩn xây dựng” cũng thuật lại rằng lịch sử đã ghi chép dưới thời nhà Lý,
vua Lý Thái Tôn xây dựng cung riêng cho các cung nữ giỏi hát múa điệu Tây Thiên.
Năm 1060, sau khi lên ngôi, vua Lý Thánh Tôn đã tìm hiểu nhạc người Chăm và
sáng tác các làn điệu phỏng theo nhạc Chăm nhằm ban ra khúc nhạc và điệu đánh
trống của Chămpa để sai khiến các nhạc công tập luyện và biểu diễn. Trên bia
Sùng Thiện Diên Linh, chùa Đọi (Hà Nam) dựng năm 1121, Nguyễn Công Bật cho
biết, Lý Nhân Tông tinh tường âm nhạc nước ngoài, từng phổ hòa âm nhạc của
Đường (Trung Hoa) và Phạn (Chiêm Thành với gốc nhạc Ấn Độ). Đến đời Lý Cao
Tông, sử cũ ghi rằng, năm 1202, nhà vua sai nhạc công chế khúc nhạc Chiêm
Thành, tiếng trong trẻo, ai oán, buồn sầu, người nghe phải chảy nước mắt thì
dường như nó còn dư vọng trong dân ca Việt Nam phần nào. Các làn điệu Nam ai,
Nam bình, hò Huế, Chầu văn, Vọng cổ, dân ca Quảng Nam, Đà Nẵng,…có yếu tố thang
âm, điệu thức, cung bậc của âm nhạc người Chăm. Xem xét hai chiếc trống: trống
cơm của người Việt giống chiếc trống ginơng của người Chăm, có hình dáng giống
nhau, cách đánh cũng giống nhau là dùng tay để đánh trống. Vấn đề là đôi khi có
sự khác nhau giữa các loại da bịt trống, còn thân trống dài ngắn có khác nhau,
nhưng về mô hình chung có sự giao thoa, tiếp nhận của nhau cả mang xách khi sử
dụng và đánh trống cũng là vấn đề giao thoa tiếp nhận từ Chăm – Việt, đến Việt
– Chăm. Như thế cho thấy, âm nhạc dân gian Việt – Chăm có vấn đề giao thoa tiếp
biến nhau. Đây là đề tài lâu nay các nhà nghiên cứu âm nhạc, dân ca dân vũ Việt
– Chăm quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu có hay không có sự tiếp nhận từ hai phía
qua giao lưu tiếp biến từ Chăm sang Việt và ngược lại.
Các công trình nghiên cứu, so sánh, đối chiếu, phát hiện
những nét tương đồng và dị biệt, cho thấy rằng đã có sự tiếp biến trong âm nhạc
lẫn nhau. Trong bốn loại nhạc cụ cổ truyền của người Chăm: trống ginơng, trống baranưng, kèn saranai, đàn kanhi đã có ba loại
giống nhạc cụ của người Việt đó là trống ginơng, giống trống cơm của người Việt
về kiểu dáng, kèn saranai giống chiếc kèn loa người Việt và đàn kanhi giống
chiếc đàn nhị (đàn cò) của người Việt. Đây chính là sự tương đồng, có sự giao
lưu các loại nhạc cụ âm nhạc giữa người Việt và người Chăm trong cộng đồng 54
dân tộc Việt Nam .
Có ý kiến cho rằng
giữa làn điệu hò mái nhì, hò mái đẩy của xứ Huế, gần gũi với làn
điệu Pelog của miền Nam Java. Trước
năm 1975, GS Trần Văn Khê cũng phát biểu trong bài báo “Âm nhạc Việt Nam”,
rằng: “Rõ ràng sự phân bố lan ra về phía Nam của người Việt và của âm nhạc Việt
là cả một quá trình giao lưu văn hóa và hòa hợp dân tộc rộng rãi, sâu sắc và
lâu dài với người Chăm, khiến cho nhạc
Việt đã nhuộm màu Chàm” in trên Tạp chí Bách Khoa số 25 - 26, 1958 (Sài Gòn,
trước 1975) và trong tác phẩm “Âm nhạc
Việt Nam cổ truyền” xuất bản tại Paris, (Pháp) năm 1962 [[3]]
Trần Văn Khê cũng cho rằng âm nhạc Việt – Chăm đều có sự giao thoa âm nhạc dân
gian vùng Đông Nam Á trước khi tách riêng khẳng định bản sắc của mình. Như thế,
âm nhạc dân gian Việt – Chăm có sự giao thoa nhau từ thời xưa mà nay các nhà
nghiên cứu âm nhạc tìm thấy sự gần nhau giữa thang âm, điệu thức của Chăm –
Việt. Nhạc sỹ Phạm Duy trong các công trình nghiên cứu âm nhạc của mình cũng có
ý kiến cho rằng có sự giao thoa giữa âm nhạc Việt – Chăm.
Sau năm 1975, nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc cũng phát biểu
rằng có sự giao thoa tiếp biến âm nhạc Chăm sang âm nhạc Việt và ngược lại.
Trong tác phẩm “Văn hoá biển miền Trung
và văn hoá biển Tây Nam
bộ”, GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, phát
biểu: “Lâu nay phổ biến một nhận xét rằng sắc thái âm điệu chơi vơi, man mác
của hò mái nhì, hò mái đẩy là kết quả của tiếp biến văn hoá từ âm nhạc Chăm.
Tuy nhiên cho đến nay chưa ai chứng minh được rằng cái sắc thái ấy ảnh hưởng cụ
thể từ thang âm nào của bài nào, thể loại nào trong âm nhạc cổ truyền Chăm”.
Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc còn cho biết thêm, không chỉ là hò mái nhì, mái đẩy, hò Huế của Huế mà âm nhạc Chăm còn giao thoa đến các làn điệu dân
ca quan họ Bắc Ninh của Bắc bộ. Ở
miền Trung lại cũng có sự tiếp nhận từ nhạc Chăm vào trong các điệu hò, dân ca
xứ Quảng mà thang âm, điệu thức của sự giao thoa, tiếp biến này trình bày qua
phối khí cho biết có sự tiếp thu của nhau trong âm nhạc dân gian thật rõ ràng
thông qua các tiếng đơn âm: ni, nớ, uý, oá,…hay tiếng đa âm tiết: tà là,… trong điệu hò chèo thuyền, chính
đó là sự tin cậy để đoán chắc rằng âm nhạc Chăm có trong âm nhạc Việt.
Âm nhạc Việt – Chăm, hoặc âm nhạc các dân tộc khác vùng
núi miền Trung Việt Nam có sự giao lưu, hoặc tiếp biến lẫn nhau, xét về mặt
lịch sử vẫn là quy luật tất yếu diễn ra trong tiến trình sống cộng cư, đan xen
nhau trên một địa bàn cư trú.
Thời gian qua, với sự quan tâm sưu tầm, nghiên cứu của các
nhạc sỹ, hàng chục làn điệu dân ca của người Chăm được ghi âm, ghi hình lưu giữ
thuộc các thể loại ariya, tọ đing, tọ atăm tàrà, tọ mư yút, tọ rathung xa, tọ
tăm mưtai,…đã thu hút sự chú ý của các nhà nhạc học và folklor học vì sự gần
nhau giữa chúng về mặt giai điệu, tiết tấu, thang âm, điệu thức so với các thể
loại ngâm thơ, vè, hát ống, hò xay lúa, hò giã gạo, hò chèo thuyền, hò đưa
linh, hát bả trạo,…trong di sản âm nhạc dân gian của người Việt miền Trung.
Những ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Thục Hiền sau đây cho cái nhìn tiếp cận
đến sự giao thoa âm nhạc Chăm vào âm nhạc người Việt miền Trung: “Sự gần gũi
giữa ca nhạc Chăm và ca nhạc Việt truyền thống lại càng sâu sắc hơn nữa khi đem
so sánh những tác phẩm đặc sắc nhất của ca nhạc Chăm với nhiều điệu hò, điệu lý
Huế, với những bài bản u hoài hay ảo não thuộc điệu Nam hơi xuân, hơi dựng, hơi
ai, hơi oán của ca nhạc Huế, đờn Quảng và đờn ca tài tử Nam bộ: hò ô, hò mái
nhì, hò mái đẩy, lý hoài xuân, lý tương tư, lý năm canh, cổ bản, phú lục, nam
ai, nam bình, tứ đại oán, quả phụ hàm oan,…”. Phạm Duy trong tác phẩm Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam [[4]]
cho rằng ngũ cung “ai” là sự sáng tạo từ ngũ cung “oán” của nhạc Chăm.
Và cũng theo nhà nghiên cứu Trần Thục Hiền tin rằng “vì
quá bức xúc trước biến cố Ô, Lý - Trần Huyền Trân mà dân gian xứ Huế, xứ Quảng,
qua nhạc và lời tuyệt tác của điệu lý qua đèo (còn gọi là Lý chiều chiều hay Lý
hoài nam), đã sử dụng tiếng Việt pha tiếng Chăm để sáng tạo nên hình tượng
tuyệt vời của người con gái Việt trong một buổi hoàng hôn có chim kêu, vượn hú
đã đau đớn rời Tổ quốc, vượt Ải Vân về Chiêm Quốc với nỗi lòng thống thiết đến
muôn đời.
Chiều ơ chiều, chiều ơ chiều,
dắt ớ bạn, dắt ớ bạn
Ơ đèo mà qua đèo, tà là đèo qua đèo,
Chim ớ kêu, chim ớ kêu,
Tình kêu chứ bên nớ, uý ỏa, chi rứa,
chi rứa,
ức ức con vượn trèo
Tà là trèo, con vượn trèo, ni bên
ni, ơi hởi,
Con vượn trèo,
ni bên ni.
Đi sâu
phân tích điệu Nam của thang âm ngũ cung và các sắc thái tình cảm tế nhị và
tinh vi của nó là hơi xuân, hơi ai, hơi oán của nhạc cổ điển và dân gian Việt
miền Trung, miền Nam, nhà nhạc học đã phát hiện rằng nhạc truyền thống Chăm
cũng có thang âm, điệu thức và các hơi nhạc tương tự:
- Thương âm ngũ
cung – Điệu Nam hơi ai (Chăm và
Việt):
Hò–Xự (già)–Xang (non)–Xê–Cống–Liu–Ú (già)
- Thương âm ngũ
cung - Điệu Nam hơi oán (Chăm và Việt):
Về sau, khi người
Việt vào nam sinh sống, chúng ta thấy có sự trao đổi, gặp gỡ nhau về tâm hồn,
về khuynh hướng thẩm mỹ của hai dân tộc. Múa đối với người Chăm được tôn vinh,
biểu hiện trên các tượng đá, đài thờ có khắc hình người múa, phần lớn là múa
dân gian, phục vụ cho nghi lễ tôn giáo. Điều đó cho biết rằng múa không phân
biệt đối xử bởi người Chăm xưa, mà còn là một nghệ thuật độc đáo của người Chăm
trong vùng văn hóa miền trung Việt Nam.
Hầu hết các điệu múa dân gian Chăm có múa khăn, roi, trống, quạt và căn cứ vào
đạo cụ múa đặt tên cho điệu múa ấy.
Có thể cho ta
thời nay cái nhìn về thời Lý Cao Tông “năm Mậu Tuất (1118) tháng 7, mùa thu,
nhân có sứ Chiêm Thành sang cống, lại gặp lễ khánh thành chùa Thắng Nghiêm
thánh thọ, vua cho mở hội Thiên Phật, cho sứ Chiêm Thành xem” (Khâm định Việt sử chính biên, qIV, tập
IV, tr.9). Vì là mối tương quan dân tộc, mối tương quan trong đại gia đình Việt
Nam cho nên tiếng lòng, nỗi đau xót của người Chăm, nếu có, cũng là sự biểu cảm
chung của người Việt và ngược lại, càng quan hệ thắm thiết với nhau thì tình tự
dân tộc càng đậm đà khăng khít, cho nên buồn họ cũng chia mà vui họ cùng chung.
Niềm vui của dân tộc ta thường thể hiện trong các dịp hội hè đình đám qua lời
ca tiếng hát, qua các vũ điệu. Trong quá trình quan hệ và phát triển tinh thần
dân tộc, Việt và Chăm đã vay mượn của nhau nhiều điệu múa chẳng hạn như điệu “Múa nón” và “Múa chèo”. Ông Dương Hòa kể rằng “Năm Khải Định làm lễ tứ tuần có người Chàm đến dự ở Ngọ Môn. Họ múa
hai vũ điệu, không biết tiếng Chàm gọi là gì, chỉ biết khi múa vũ công cầm nón
và cầm chèo nên chúng tôi gọi là “Múa nón” và "Múa chèo”. Đây là hai
điệu múa nhà trò, tức là những điệu múa từ dân gian du nhập vào hoàng cung, chứ
không phải những điệu múa gốc ở trong cung điện. Về sau thấy có nhiều nét hay
nên bắt chước, chắc cũng có thay đổi ít nhiều. Điều chắc chắn rằng những điệu
"múa dân gian Chăm dựa trên bốn động tác cơ bản như: múa con công,
múa con gà tây, múa quý phái và múa hoàng tử. Từ trong thực tiễn cuộc sống các
nghệ nhân Chăm đã phát triển, biến hóa kết hợp lại tạo thành những động tác múa
hoàn chỉnh, nhưng mỗi điệu múa đều có những nét độc đáo và mang phong cách
riêng của mình" [[6]]
Đấy có thể là múa nhà trò như vừa nêu là những điệu múa ảnh hưởng của Chăm như
điệu múa Bóng của người Chăm tại Khánh Hoà (tháp Bà Nha Trang) được truyền sang
người Việt khi người Chăm dần rút vào Nam. Và người Việt đã tổ chức múa bóng
vào ngày vía của nữ thần Thiên Y A Na. Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang tìm
hiểu về loại hình múa hát dân gian này. Qua đó, chúng ta thấy hai dân tộc gặp
gỡ nhau và trao đổi cho nhau về âm nhạc và nghệ thuật, nghĩa là họ đã có một
mối tương quan khá đậm đà và khăng khít.
Nhận thấy rằng, giá trị văn hóa –
giá trị tinh thần – do hai dân tộc tạo nên đã có một sức mạnh khuất phục được
giai cấp thống trị phong kiến đương thời. Vì lẽ đó mà các vương triều Chăm –
Việt chỉ phủ định ngôi vị của nhau mà không thể phủ nhận giá trị tinh thần
được. Nhưng chắc rằng mối tương đồng dân ca dân gian Chăm – Việt cũng lý thú và
sâu lắng không kém các loại hình văn hóa dân gian khác.
Người
Việt cũng như người Chăm có một nền dân ca rất phong phú và đa dạng gồm đủ các
thể loại. Có những bài hát ru để đưa con vào giấc ngủ, có những bài ca lao động
được hát trong lúc làm việc, có những bài ca trữ tình hát trong lúc trai gái
vui chơi hội hè, có những bài ca dành cho các nghi lễ, hát trong lúc tang
ma…Sau đây là một vài loại tiêu biểu vừa giống nhau về hình thức lẫn nội dung
và ý nghĩa.
Ví
dụ người Chăm hát ru em:
À ơi
ngủ đi con
Để
chỉ còn tiếng chó sủa của cha
Đang
săn con chồn con thỏ.
Hoặc :
Con của
mẹ ơi
Ở
nhà đừng khóc
Để
mẹ đi rẫy
Để
cha đi rừng
Mẹ
đem về cho con nhiều bắp lúa
Cha đem về cho con thịt rừng.
Ví
dụ người Chăm hát đối nhau dành cho trai gái:
Lời con
trai:
Nghe tiếng khèn môi, bụng anh như chỉ rối
Nghe tiếng đàn ót, lòng
anh như ong châm
Suối nước, nơi đôi ta
thường qua
Kiếm đâu ra em trong lúc
này.
Lời
con gái:
Chiếc thang nhà còn đó coi như đã gãy
Em muốn đi mà chân như
cột chặt
Con chim kêu làm em giật
mình
Tưởng tiếng kèn anh đến
cửa sổ
Dù nhiều măng tươi con
nai không ngó tới
Như thế,
hát đối đáp nhau qua lại giữa nam nữ không chỉ có người Việt mà người Chăm cũng
có loại thể dân gian này, và cũng diễn xướng nơi làng quê xóm kiểng. Đây là sự
giao thoa nhau trong không gian văn hóa Sa Huỳnh – Đông Sơn trong cộng đồng các
dân tộc Đông Nam Á.
Vì tục lệ
của tôn giáo nên người Việt và Chăm miền Trung không giống nhau về cách
chôn/táng: người Việt thì chôn thi thể, người Chăm thì hỏa thiêu. Tuy vậy,
thông qua nghi lễ chôn cất trên, chúng ta thấy hai dân tộc Việt và Chăm vẫn có
mối tương đồng không chỉ trong quan niệm về cuộc sống mà cả về ý nghĩa của cõi
chết một đời người (không khảo sát hình thức táng). Bởi người Chăm và người
Việt miền Trung cũng có quan niệm âm – dương. Tất nhiên cũng còn mối tương đồng
trong những loại dân ca dân vũ khác nữa. Người Chăm đang lưu giữ
một kho tàng dân ca với những làn điệu, mà thang âm, điệu thức có quan hệ mật
thiết với dân ca người Việt, chúng tôi rất cố gắng trình bày
tường tận trong một chương của tập khảo luận này.
Trong quá
trình phát triển thành cộng đồng dân tộc Việt Nam, hai dân tộc Việt và Chăm đã
từng trao đổi, bảo lưu, ca tụng vốn văn hóa, vốn tinh thần chung của nhau. Họ
không phân biệt dân tộc, không phân biệt nguồn gốc dân tộc, mà bình đẳng mọi
tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động. Họ đã gặp gỡ nhau trong đời sống
tinh thần thông qua môi trường dân gian, trong quan niệm về thẩm mỹ dân dã của
người dân tại các làng quê dân mọn xóm làng, trong bối cảnh thời ấy như Nguyễn
Trãi đã từng nói: "manh lệ chi đồ tứ tập”.
Thông qua sự tìm hiểu về lịch sử âm nhạc,
vũ điệu, dân ca của hai dân tộc Việt – Chăm, chúng ta đã tiếp xúc được nhiều sự
kiện lịch sử tích cực, nhiều hiện tượng văn học nghệ thuật tương đồng giữa hai
dân tộc Việt – Chăm. Đồng thời chúng ta cũng đã bắt gặp mối tương quan của hai
dân tộc Chăm – Việt về tinh thần, về tư tưởng, tình cảm chống lại thế lực
phương Bắc. Chúng ta còn nhận thấy mối tương đồng không những về các hình thức
phản ánh văn học nghệ thuật mà cả về kết cấu, cách dùng các chất liệu cụ thể.
Trên đây là một số chứng tích và ý nghĩa của mối tương quan khăng khít lâu đời
của hai dân tộc Việt và Chăm. Đó là kết quả tất yếu của các quá trình phát
triển trong điều kiện:
- Trước
hết là quá trình chung sống, lao động, chiến đấu trong điều kiện địa lý và
thiên nhiên giống nhau (từ Đèo Ngang trở vào Bình Thuận) với công cụ và kỹ
thuật lao động tương đương nhau và cũng có nền văn minh nông nghiệp.
- Quá
trình lịch sử chống ngoại xâm của hai dân tộc chống lại phong kiến từ phương
Bắc suốt hàng chục thế kỷ.
Các quá
trình đó xuất phát từ những nhân tố tích cực của hai dân tộc, nhất là của nhân
dân lao động, người trực tiếp sản xuất ra mọi giá trị vật chất và kiến tạo nên
nền văn hóa – lịch sử dân tộc. Đó là tư tưởng sống trong hòa bình thân yêu,
cùng nhau trao đổi bồi đắp, xây dựng nền văn hóa - lịch sử chung của dân tộc
Việt Nam .
Chính đó, nhân dân lao động Việt Nam trong đó
có người Chăm và người Việt là chủ nhân chính của lịch sử và văn hóa dân tộc,
luôn luôn có ý thức chung sống, hòa hợp, tiếp thu lẫn nhau để tồn tại và phát
triển. Đó là qui luật phát triển của các thành phần dân tộc Việt Nam trong quá
trình dựng nước và giữ nước. Mối tương quan khăng khít Việt – Chăm là một sự
tất yếu.
Có thể thấy sự chuyển tiếp nghệ thuật múa dân
gian của người Chăm sang người Việt và được người Việt miền Trung thực hiện
theo cách của mình, tuy nhiên vẫn giữ những thành tố chủ yếu của Chăm, điệu múa
Bóng cho chúng ta về sự xác định như vậy. Khi người Chăm lui dần vào các tỉnh
Nam bộ, bỏ kinh thành, bỏ cả hình thức tín ngưỡng thiêng liêng thờ vị nữ thần
Po Inư Nưgar của dân tộc mình, liền đó người Việt tiếp quản và tiếp tục thờ vị
nữ thần này như là vị thần người Việt, có quyền năng và dạy dỗ dân biết làm ăn,
biết dựng nhà để ở, biết trồng trọt,... Ngày vía Bà nhằm vào ngày 23, 24, 25
tháng 3 Âm lịch (theo lịch người Việt), người Việt tại đây tổ chức lễ cúng. Đêm
có múa Bóng tại sân tháp, tạo cho ngày vía Bà trở thành ngày hội của người dân trong
vùng (có điều người Chăm chỉ tham gia bằng mang lễ vật đến cúng mà thôi, có lẽ
do vị nữ thần đã được Việt hoá thành Thiên Y A Na rồi, còn vị nữ thần Po Yang
Inư Nưgar của họ được thờ cúng tại Ninh – Bình Thuận rồi chăng ?).
2. Múa Bóng: Người Việt vào Nam khai phá
đất đai, xây dựng cuộc sống dài lâu, đứng trước cơ sở thực tiễn thiên nhiên,
con người họ cảm thấy mới lạ. “Đến đây xứ sở lạ lùng” mà! Vận dụng tín ngưỡng
dân gian mang theo, trong đó Đạo Mẫu được thực hiện để mong có sự an lành, tuy nhiên tín ngưỡng
thờ Mẫu đã lược bỏ bớt hình thức Tam tòa, Tứ phủ như khi còn ở Bắc. Họ đã thay vào đó là những vị thần mới tiếp nhận tại vùng
đất phương Nam như nữ thần Cửu Thiên huyền
nữ; thần Đất/thổ/ Địa phủ; và vẫn tiếp tục thờ tự thần Ngũ Hành nương nương, bà Thủy/Thủy phủ/Thần nước; bà Hỏa. Theo chức năng trong hệ thống thần mới người Việt cho gia nhập vào tín ngưỡng dân gian của mình và quan niệm rằng quyền năng cai quản vùng đất phương Nam là
thuộc về nữ Thần/Thần nữ hay còn gọi là các
bà chúa Xứ, chúa Hòn, chúa Động, gọi tắt là Bà! Qua ghi chép cho thấy tục thờ
Mẫu của người Việt miền Nam vừa có các thành tố dân gian của tín ngưỡng cũ,
đồng thời tiếp nhận các thành tố phù hợp của tín ngưỡng bản địa, tạo nên hiện
tượng tích hợp, hỗn dung văn hóa trong tín ngưỡng của mình tại vùng đất mới. Bằng
chứng cho thấy các miễu thờ được người Việt xây dựng chồng lên nền tháp cũ của
người Chăm, hoặc xây dựng cạnh bên các tháp Chăm, Hiện tượng này ta bắt gặp nhiều
tại vùng đất từ Thiên Thiên – Huế trở vào Nam.
Múa Bóng trong
nghi lễ hầu đồng múa bóng xuất hiện tại nhiều nơi từ vùng đất Thừa Thiên - Huế
trở vào Nam. Hai trung tâm tín ngưỡng: Điện Hòn Chén (Thừa Thiên – Huế) và Tháp
Po Nagar (Khánh Hòa – Nha Trang), được xem là có hầu đồng múa Bóng vào các ngày
tế lễ, vừa có nữ thần người Việt phối thờ vị nữ thần Thiên Y A Na mà người Việt
đã ảnh hưởng sang tín ngưỡng dân gian của mình.
Tại xóm Bóng, thành phố Nha Trang, và điện Hòn Chén thành phố Huế, người
Việt đã tiếp biến và tích hợp múa dân gian trong lễ tiết hầu đồng (lễ tiết quan trọng trong múa Bóng), có kèm hát chầu văn và biến đổi dần thành điệu múa riêng của người Việt phía Nam đèo Hải
Vân trở vào Nam bộ. Ở đây, chúng tôi ghi chép điệu múa nghi
lễ trong tín ngưỡng dân gian từ điệu múa Bóng của người Chăm giao thoa sang
người Việt miền Trung.
Tại xóm Bóng, thành phố Nha Trang,
người Việt đã tiếp biến điệu múa nghi lễ tín ngưỡng từ điệu múa Bóng dân gian
của người Chăm chuyển sang. Đội múa là người sinh sống tại Xóm Bóng (Nha Trang),
đội hoàn toàn là thiếu nữ. Để múa Bóng, mỗi bóng được hoá trang xiêm y lộng
lẫy, trên đầu vũ công, có người đội bó hoa tươi, có người đội đèn lồng ngũ sắc.
Hoa hoặc đèn được kết dính chồng cao lên như chiếc tháp (giống tháp Chăm). Nhạc
khí đệm cho điệu múa sinh động là đàn kanhi và trống ginăng (giống như trống
cơm (kur pepa) của người Việt). Thời của những thế kỷ trước, chưa có điện, chỉ
dưới ánh sáng lập loè của đèn đuốc thắp bằng dầu dừa, mù u, dầu rái, họ múa rất
đẹp và dịu dàng, uyển chuyển, làm thu hút người dân quanh vùng đến dự lễ hội
vía Bà Thiên Y Thánh mẫu/Bà Chúa Ngọc đông vui tấp nập. Những động tác múa Bóng
thật mềm mại, nhịp nhàng theo điệu chiêng năm [[8]] và trống ginăng, nhưng tài
thay, dụng cụ hoá trang đội trên đầu các vũ công vẫn không lay động, vẫn bám
chắc vào đỉnh đầu. Và cứ vậy điệu múa Bóng nhịp nhàng, đều đặn theo nhạc diễn
tấu rộn ràng.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Tứ Hải (Khánh Hòa) [[9]], Bóng tức người diễn/người múa. Họ là những cô gái được lựa chọn tại
Xóm Bóng và được tập luyện thành thục trước khi phục vụ lễ hội vía Bà. Trong lễ
múa Bóng có các bước:
- Khai mở hội lễ, là lễ khai tràng, múa nghinh đón, cung chúc
thần, thánh về dự lễ. Phần này chừng mức nào đó có giao thoa, tiếp biến chút ít
từ lễ của đạo Phật. Múa còn gọi là múa rỗi tuy nhiên rất ít ảnh hưởng theo lối
múa Lục cúng cung đình Huế [[10]].
- Lễ mục mời các vị nữ thần, Tiên nữ,
các chiến sỹ trận vong,... về dự lễ vía Bà và dự lễ múa Bóng mừng Bà gọi là Xắp hát chầu mời. Bài hát thường được
các nghệ nhân Xóm Bóng soạn theo điệu lý, hoặc mượn làn điệu điệu nào đó của
tuồng.
- Hai tiết lễ Diễn chặp Địa – Nàng và Bóng dưng mâm vàng được diễn trình tiếp tục
làm tăng vẻ trang nghiêm trong lễ vía Thiên Y Thánh mẫu. Về phần nhạc đệm, phần
nào có giống với nhạc tuồng Nam Trung bộ. Bóng dưng có hai người. Đây là tiết
múa thu hút đông người xem do tính hấp dẫn của múa trong tiết mục. (Thường, tại
các đình làng miền Trung ngày khánh thành, hoặc theo lệ cầu an hằng năm có hát
tuồng, còn cúng âm hồn, cô hồn tại miễu xóm thường không hát mừng). Ở tháp Bà
Nha Trang trong ngày vía Bà có hát múa chặp Địa – Nàng. Hai Bóng đóng hai nhân
vật Địa và Nàng và múa hát theo cốt truyện nào đó được chọn trước, có kết thúc
Thiên Y A Na Tiên nữ ban cho lộc cả. Truyện, thể hiện trọng tâm là thần là Tiên
nữ xuống trần ban lộc, ban an lạc thái hòa cho dân chúng. Thiên Y Tiên nữ nhờ
Thổ địa đưa đường đến vườn hoa để khai mạch nước tưới hoa, tức biểu thị rằng
Thiên Y Thánh mẫu cho vũ thuận phong điều, mùa màng tươi tốt, cây trái xanh
tươi. Đây là mục đích chính của lễ hầu đồng, múa Bóng cầu an ở tháp Bà Nha
Trang. Trong suốt thời gian hát, nói, kể trong tiếng nhạc pha lẫn âm sắc năm âm
theo điệu tuồng cổ, người xem cảm nhận được cái hay, vẻ đẹp của múa và chặp Địa
– Nàng; đồng thời toát lên vẻ linh thiêng tràn ngập sân tháp, pha lẫn ý nghĩa
cuộc sống đời thường của con người và những đổi thay hằng ngày trong cộng đồng
cư trú quanh vùng.
- Bóng
dưng lên Thiên Y mâm vàng: Múa dâng
hoa, dâng ngũ quả, rước đèn, đội tháp, múa dựng người thành tháp. Múa mâm vàng,
hình thức và sử dụng đạo cụ múa mô phỏng chiếc mâm làm bằng giấy vàng mã, kết
thành hình tháp như các tháp cổ của người Chăm tại vùng này (liên tưởng đến
tháp bánh gừng). Đây là tiết mục trang nghiêm nhất để dâng lễ vật lên Bà.
Động tác múa Bóng, cả chân tay đều
nhịp nhàng theo cách bước ký, dặm, bỏ,... nhưng chủ yếu là các đầu ngón chân và
gót chân. Đầu, tay, chân đều có sự kết hợp nhịp nhàng khi múa sao cho cân đối,
nhịp nhàng, uyển chuyển, dịu dàng. Điệu múa Bóng nguyên gốc của người Chăm,
theo các tác giả Võ Triều Dương và Nguyễn Man Nhiên trong bài viết Múa lục cúng
hoa đăng Ninh Hòa, cho rằng cho dù người Việt Nha Trang có cải biên điệu múa
Bóng tại Tháp Bà Nha Trang đến thế nào thì cũng không tách biệt ra khỏi cách
múa may lượn nhảy của điệu múa Chăm [[11]].
Giữa điệu múa Bóng tại Tháp Bà với đoàn múa Bóng của thầy Tám Của thì trong các
lễ dâng hương, hoa quả, các vũ công, vũ nữ lắc lư uyển chuyển cả châu thân, dường
như nhún nhảy bằng các đầu ngón chân và gót chân, đôi khi phơi cả đường nét
sống động. Điệu múa Bóng hoàn toàn múa và hát, không ảnh hưởng gì đến cách chạy
đàn nguyên thủy của Phật giáo hằng trăm năm trước cũng như bài ca từ khúc.
Nhạc sử dụng trong lễ múa Bóng là
nhạc ngũ âm của người Việt, có âm hưởng nhạc lễ cúng Mẫu từ bắc miền Trung vào
và xa hơn, có điệu nhạc lễ trong tế bà như: Chúa Kho,... ở miền Bắc. Nhạc cụ
gồm các loại trống cái, trống con, đàn nhị, sanh cái. Trong múa Bóng diễn viên
(cũng là Bóng) có múa quạt, phần nào đó cho thấy thể hiện hình thức như cách
điệu trên sân khấu. Múa Bóng tháp Bà Nha Trang có hơi hướng của hát bội, hát
bài chòi miền Trung. Trong lễ múa Bóng có dùng người dựng nên hình tháp (giống
như múa Lục Cung trong cung đình Huế), pha chất tuồng Trung.
Cũng điệu múa này vào đến Đồng Nai,
nhạc trong múa Bóng rỗi có pha vọng cổ của dân ca Nam bộ nên chất giọng, lời ca
ngọt ngào và dài hơi hơn, còn trong múa Bóng tại tháp Bà Nha Trang vũ bộ có
phần mạnh mẽ, cứng cáp hơn là vũ bộ múa Bóng rổi của Đồng Nai. Tuy nhiên, về
mục đích yêu cầu của lễ múa Bóng rổi ở Đồng Nai và múa Bóng tháp Bà Nha Trang
là cầu an cho nhân dân an lạc, thái bình.
Lễ vía Bà/Thiên Y A Na/Bà Chúa Ngọc
tại tháp Bà Nha Trang cũng là hình thức thờ Mẫu, có tích hợp tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt miền Trung mang vào từ Bắc trên bước đường "tòng chinh lập
nghiệp". Múa Bóng chủ yếu cầu xin Bà giúp cho cư dân trong vùng bình an vô
sự trong quá trình lao động sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần và đồng
thời mong Bà xua đi ôn dịch, giúp cho mưa thuận gió hoà, lòng người thân thiện,
đoàn kết nhau trong cuộc sống thái bình,... tức cầu an.
Để thực hiện múa
Bóng trong lễ vía, người dân trong xóm trước tháp Bà đảm nhận phần chuẩn bị,
chọn mười hai cô gái còn trẻ, lập đội múa và tổ chức múa Bóng (hát, nói, kể
cùng với múa). Những vũ công phần lớn là người của xóm, người biết múa truyền
dạy cho lớp theo sau, cứ thế nối truyền, từ đó xóm được gọi là Xóm Bóng của
làng Cù Lao (tháp Bà trên đồi của làng Cù Lao). Khi ngang qua Xóm Bóng, vẫn còn
tìm lại được dư âm của một thời lễ hội tháp Bà :
Ai
về Xóm Bóng thăm nhà,
Hỏi xem
điệu múa dâng Bà còn chăng ?
Thế
thường tre lụi còn măng,
Lẽ đâu
tham đó, bỏ đăng cho đành [[12]].
Múa Bóng, hầu đồng trong lễ hội vía
Bà tại Nha Trang hằng năm vẫn tổ chức đông đúc, náo nhiệt, đến thời Bảo Đại thì
lệ múa Bóng này bãi bỏ. Tuy nhiên lễ cúng tế vẫn được tiến hành, hằng năm và
vào các ngày rằm, mồng một người dân quanh vùng đến thắp hương khấn vái xin Bà
cho những điều may mắn.
Theo nhà nghiên cứu văn hoá dân gian
Ngô Văn Ban người địa phương tại Khánh Hoà kể rằng, hằng năm vào ngày 23, 24,
25 tháng 3, người Việt từ các nơi đỗ về rất đông để dự lễ vía Bà, có đoàn từ
Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng,... đến Sài Gòn, mang lễ vật đến vía. Người dâng hương
đông nên Ban tổ chức phải sắp xếp lịch vía cho thật khoa học mới có thể chu
toàn được trong các ngày lễ hội. Và lễ vía Bà không chỉ có múa Bóng mà còn có
hát bội, hát tuồng phục vụ Bà và người dâng hương tứ phương, tạo nên không khí
hội hè vào những ngày này.
Trước đây, ngoài lễ hội tháp Bà còn
có lễ dâng hương vào đêm giao thừa tết Nguyên đán cổ truyền của người Việt.
Người dâng hương ùn ùn tập trung về tháp Bà trong thời điểm giao nhau giữa năm
cũ và năm mới, trong cái se lạnh bàng bạc của đêm giao thừa. Họ đến với vị nữ
thần Thiên Y A Na để tìm cái may mắn đầu năm. Thời ấy theo Quách Tấn trong sách
Xứ trầm hương miêu tả:...và những
chòm cây muồng hoè ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, đầy
đặc cả đom đóm...Có thể bảo rằng bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống đọng nơi
cây cối. Ánh vàng làm chúa tể thay bóng tối đêm ba mươi. Nhìn trước: ánh vàng.
Ngó sang hữu: cũng ánh vàng. Từ cầu Hà Ra qua đến Xóm Bóng, du khách có cảm
giác đi ngang qua một rừng sao.
Nhưng rừng sao ở đây không đứng yên
mà luôn cử động. Hễ vùng này sáng thì vùng kia tắt, vùng này tắt thì vùng kia
liền sáng. Cứ sáng, tắt, tắt, sáng,... luân phiên, liên tục, không mau, không
chậm, đều đặn, nhịp nhàng.
Quanh đồi Cù Lao và trên những lùm
cây ở mé sông cạnh tháp, cũng đầy cả đom đóm. Ánh vàng cũng rực rỡ, dấp dới
lung linh. Và trên tầng ánh sáng khi khuất khi hừng, bốn ngọn tháp nửa quyến
cây xanh nổi bật lên nền trời cao, uy nghiêm nhưng hiền hậu.
Nay, đom đóm không còn thấy trong đêm
chuyển giao năm cũ và năm mới, nhưng lễ vía, xin lộc đầu năm vào thời điểm giao
thừa của người dân quanh vùng vẫn còn tiếp diễn.
Quá
trình xuất hiện và tồn tại của lệ hầu đồng, múa bóng tại Tháp Bà Thiên Y A Na
có từ khi người Việt vào vùng đất này khai phá, xây dựng cuộc sống. Từ đó giao
thoa, tiếp biến tục thờ Mẹ Xứ Sở của người Chăm bản địa. Tại vùng đất mới,
người Việt miền Trung gặp hình tượng thờ Mẹ Xứ Sở Po Inư Nưgar của người Chăm,
người Việt liền Việt hóa thành Thiên Y A Na, đồng thời thờ ngay tại tháp cũ của
người Chăm đã bỏ đi và từ đó trở thành vị phúc thần của người Việt. Về sau,
thời đại các vua nhà Nguyễn phong tặng vị thần Chăm Po Inư Nưgar là: ‘Hoằng Huệ
Phổ Tế Linh Bảo Diệu Thông, Mặc Tướng Trung Hưng, Ngọc Trảng Thiên Y A Na Diễn
Ngọc Phi, Dực Bảo Trung Hưng, Thượng Đẳng Thần’. Trong tục thờ Mẹ Xứ Sở có hình
thức hầu đồng, múa bóng, hát chầu văn dần xuất hiện tại vùng đất Khánh Hòa.
Biểu tượng mẹ Thiên Y A Na có ảnh hưởng rộng lớn trong nhân dân bản địa và
người Việt vùng đất Khánh Hòa do trong tín niệm người Việt thờ Mẫu từ phía Bắc
mang theo trong tín ngưỡng dân gian cùng bước chân cha ông về phương Nam mở
nước. Đi dần vào phương Nam, người Việt miền Trung không chỉ mang theo kinh
nghiệm trồng cấy cây lúa nước mà còn mang theo tín ngưỡng dân gian – là hành
trang văn hóa – có tín ngưỡng thờ Mẫu. Đến xứ sở mới, gặp hình thức tín ngưỡng
dân gian của người bản địa, người Việt phối hợp tín ngưỡng của mình với tín
ngưỡng bản địa, tạo ra hình thức nghi, lễ thờ cúng phù hợp. Tại Khánh Hòa gặp
thần Mẹ Xứ Sở Thiên Y A Na của người Chăm là Po Inư Nưgar, được người Chăm thờ
tự tại cụm tháp Po Nưgar, người Việt liền Việt hóa thành Thiên Y A Na Thánh
Mẫu. Từ đó tục hầu đồng, múa bóng trong ngày vía Thiên Y đã trở thành nghệ
thuật dân gian biểu hiện bằng hình thức hát văn, múa bóng dâng Mẫu. Mẫu hay Mẹ
hay thần Thiên Y A Na có quyền năng, mang tính nguyên hợp, Mẹ Xứ Sở phân thân
thành nhiều đấng thần linh, tạo lập và cai quản vũ trụ bao la. Đây là hệ thống
thần của thế giới tự nhiên mang âm tính, là nét đặc trưng trong quan niệm về
thần linh của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á.
Hầu
đồng, múa bóng chủ yếu là mười hai cô gái, trong múa bóng có cả Tề (tức Tề
Thiên Đại thánh), Huyền (tức Huyền Dân, Đô (tức Đô Giang) là các nhân vật hiển
Phật, Thánh trong truyện cổ điển Trung Hoa được các bóng thể hiện trong chầu
văn, múa bóng tại tháp Thiên Y, tỉnh Khánh Hòa.
Trong
hầu đồng, múa bóng tại tháp Thiên Y A Na (xóm Bóng, thành phố Nha Trang) về lễ
giống như cúng đình do cầu an, mừng dân an, quốc thái, ca ngợi công đức của các
vị thần giúp dân, giúp nước, hoặc ca ngợi cảnh đẹp non sông, đất nước. Văn sự
tích Mẫu Thiên Y thể hiện:
Trăng sao lấp ló ngỡ ngàng
Chín tầng mây cũng buông
màn rủ che
Hoa hạ giới lắng nghe tin thánh
Khúc
nghê thường đón ánh hào quang.
...
Bình
minh rọi nắng chan hòa
Núi
nghiêng, cây ngả, chim ca, hoa chào.
Về âm nhạc trong lễ múa bóng dâng Bà, theo nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian Tứ Hải (tại Nha Trang), do ông Huỳnh Ngọc Ẩn cung
cấp, rằng nhạc tiêu biểu là bài bá lệnh và bài đảo ngũ cung.
Bài Bá lệnh (Bài Tôn) mang âm điệu Bắc, chủ âm là dây hò
phạn, quảng 3 (6 câu nhịp 1):
1/ Xự hò xự, xang hò xang xự
2/ Xự hò xự, xang xự cống xê
3/ Cống xê xàng, xê xàng xê cống
4/
Xự hò cống, líu cống xê xang
5/ Xang cống xê, xang hò xang xự
Bài Đảo ngũ cung (Nam Đảo) mang âm điệu trầm hùng,
Xuân dựng, chủ âm dây hò liu, 8 câu nhịp chiếc:
1/ Ú xề, xàng xề phạn liu
2/ Ú liu phạn, liu
3/ Ú liu phạn, liu ú xáng liu
4/ Ú liu phạn, liu
5/ Liu ú liu, phạn xề xàng xề
6/ Liu phạn xề, xế xế xáng ú
7/ Xề xê, cống xê xang xừ
8/ Xê xang xừ, hò xự xang xê.
Sau khi đốt văn sớ xong, tất cả lạy
thánh, thần, bấy giờ nhạc tấu bài Ngũ đối
hạ.
Sau phần lễ là phần múa bóng dâng
hoa đăng chầu Mẹ (Đồng Nai gọi là múa rổi), hay múa trả hiếu do đội tế nữ quan
12 cô gái thực hiện. Y phục múa là áo dài màu vàng, hoặc hồng nhạt, đầu đội
khăn đóng.
Khởi đầu là múa dâng hoa linh, múa
chèo thuyền, kế là múa lục bình – ngũ quả, và cuối cùng là múa dâng hoa đăng
tấu cổ.
Nếu là vía Cửu Thiên Huyền Nữ, đầu
các bóng đội tháp cao 9 tầng (cửu trùng đài). Nếu là vía Ngũ Mẫu, đầu các bóng
đội ngũ đài tháp. Nếu là vía Mẹ Thiên Y A Na, đầu các bóng đội tháp không kể
tầng, cao từ 60 – 80 cm. Dây là hình thức biểu hiện bóng dưng mâm vàng. Cuối lễ múa, tháp được đốt ngay trên đầu các
bóng để hóa vàng.
Toàn cảnh lễ múa bóng là hai hàng vũ
nữ xinh đẹp, mâm hoa trái trên đầu uyển chuyển, theo điệu hát văn lúc nhặt, lúc
khoan, càng về cuối nhạc, nhạc càng nhộn nhịp hẳn lên. Mâm tháp trên đầu các
bóng được đốt lên, ánh lửa bập bùng, trong tiếng hú, tiếng vỗ tay. Lúc này tài
nghệ của 12 vũ công (bóng) được thể hiện linh hoạt, mang nét đẹp thoát tục.
Người đi dâng lễ, xem múa bóng tại tháp Bà Thiên Y như hòa vào, nhập vào cái
hồn cốt của điệu múa mang tín ngưỡng dân gian này.
Múa bóng là múa của thánh, thần.
Trong múa bóng, hát văn, chầu văn
thể hiện tục thờ Mẫu của người Việt miền Trung mang ảnh hưởng của thờ Mẫu của
miền Bắc, dần tiếp biến thêm phần nào từ thờ Mẹ Xứ Sở của người Chăm tại tháp
Thiên Y (Nha Trang), biểu hiện qua hát múa bóng tại Tháp Bà Nha Trang. Đây là
loại hình diễn xướng có kết hợp với trò diễn dân gian trong ngày vía Thiên Y A
Na. Nhạc tấu trong hát chầu văn múa bóng tại Tháp Bà Nha Trang, theo nhà nghiên
cứu Tứ Hải (Nha Trang, Khánh Hòa) nhạc có trống, nhị, đàn nguyệt, sáo trúc, đàn
bầu, ghi ta phím lõm. Các điệu chính của múa bóng, chầu văn trước hết là điệu
phú. Phú có các điệu phú trung, phú hạ, phú mùi. Điệu phú trung, phú hạ phối
lên chỉ riêng nghinh đón mẫu, vua, quan; còn điệu phú mùi dùng phối lên khi các cô đi dạo chơi.
Điệu phú chủ yếu là hát chầu văn, giai điệu có nét buồn, chậm. Chủ âm của điệu
phú là hò líu. Các nhà nghiên cứu cho rằng tương đương với âm « rê »
của nhạc phương Tây. Sự giao thoa, tiếp biến trong múa bóng tại Tháp Bà, Nha
Trang còn thể hiện ở chỗ thờ thần Thiên Y A Na của người Chăm, nhưng nghi, lễ,
nhạc điệu là của người Việt miền Trung. Ta có thể thấy điều này qua trích đoạn
văn kể về « Sự tích Thiên Y A Na Thánh mẫu »:
Nhạc dạo đầu:
Xáng u, liu cộng,
xáng công, xề xàng
Liu xàng, xề liu, xề xáng, ú liu.
Nhạc và lời:
Thuở tiên
giới,... ớ,... ơ,... sầu bi đưa tiễn,... ư,... ứ,... ừ.
Liu liu hò xang xê cống, cống cống liu cống
xê, xự xang xế hò, xang xế hò.
Đấng tiên nga,... hạ xuống,... trần gian,...
ư,... ứ,... ừ.
Liu liu, xàng xề liu , xáng ú liu, liu liu, xề xáng, xáng xáng xề, liu, xế, xáng
liu.
Hết hai câu song thất, nhạc dạo nền :
Xáng u liu cồng, xáng cộng xề xang,
Liu xàng xề liu, xề xáng u liu.
Lấp ló ngỡ ngàng tràn sao...hờ
Liu liu xự cống xang hò, hò xang
cống xê, hò, hò.
Trăng sao lấp ló ngỡ ngàng
Hò hò liu cống xê xang xự xang xế
hò.
Chín tầng mây cũng buông màn... ở...
ơ... ơ... ờ
Liu liu xáng u liu còng, cộng cộng
liu cộng xề xàng
Buông màn rũ che
Xàng xàng liu xàng xề liu.
Cứ như thế hát theo cách vòng tròn,
và nhạc chấm dứt hết bài bằng:
Xáng u, liu xàng, xề liu.
Trích “Chầu năm suối lân”:
Ai lên tới Lạng Sơn
châu thổ
Nhắm cảnh rừng
thác đổ, suối reo
Dở trang tích cũ
Lê triều
Xừ u... u... u liu cồng liu u
Suối Lân Công
chúa, í... a... i... à... i... á
Líu xàng xê cống, cống cống xê xàng xê cống
Mỹ miều diễm
hương
Cống xê xang xừ, xừ xừ hò xự xang xê
Nét đoan trang vẻ
nhường ngọc thuyết
Líu cống xê xang xừ, xang xê líu cống
Đôi mày ngài, đôi
mày ngài nửa khuyết vầng trăng
Cống xê xang xừ xừ xáng u liu phạn lìu u xáng tồn liu.
Hết đoạn, nhạc quay trở lại và hát theo cách vòng tròn.
Các
nhân vật – xem là nghệ nhân – đóng vai hầu đồng múa Bóng đều có cảm tưởng rằng:
hầu đồng múa bóng là sự vận động điều khiển thần kinh, chuyển hướng hoạt động
của con người từ trạng thái này sang trạng thái khác. Người múa bóng tập trung
thần kinh, đưa con người sang thế giới thần tiên, thoát tục, cảm nhận sự linh
nghiệm, hình ảnh cùng tiếng nói là thế giới của thần linh.
Múa Bóng thể hiện sự giao thoa tiếp
biến, hòa hợp văn hóa dân gian từ Việt miền Trung sang Chăm và ngược lại. Người
dân Việt miền Trung không quen gọi thờ Mẫu mà thường gọi Thiên T A Na thánh mẫu
là “Bà”, Tháp thờ cúng cũng gọi là Tháp Bà. Xóm dân cư trước Tháp gọi là xóm
Cồn. Tại xóm là nơi diễn tập đội múa Bóng hầu Bà nên cũng gọi là xóm Bóng hay
xóm Cồn Bóng. Hằng năm vía Bà vào tháng 3 Âm lịch đã trở thành tục lệ in sâu
vào đời sống tinh thần của nhân dân địa phương:
Ai về xóm Bóng quê nhà,
Hỏi
thăm điệu múa dâng Bà còn không?
[1] Đại
Việt sử lược, thế kỷ thứ 14 (1377 - 1388, khuyết danh, Nguyễn Gia Tường dịch,
chú, NXB TP HCM, bộ môn Châu Á học, Đại học Tổng hợp TP. HCM. 1993,t Tr. 86.
[2]
Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm, Bộ giáo dục, Trung tâm học liệu xuất
bản, Sài Gòn, in lần thứ 10, SaiGon 1968. Tr 162, 163.
[3] La Musique VietNamienne traditionnelle, Trần
Văn Khê, Editions Persses Universitaires de France, Paris 1962.
[6] Xem: Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt
Nam, Thành Phú Chung, luận văn Thạc sỹ lịch sử , Trường ĐHSP. TP. HCM.
2011.
[7] Trích trong:
Văn hoá người Chăm H’roi tỉnh Phú Yên, Hội VNDG Việt Nam – Lê Thế Vịnh – NXB,
Dân Trí, 2010.
[8] Gồm 5 chiếc:
1/Prens; 2/Prons; 3/Prươp; 4/Priêns; 5/Pruồn. Chiêng năm chỉ đánh lên khi có
cúng quảy, các lễ cúng quan trọng khác của người Chăm.
[9] Trao đổi tài liệu qua E
mail.
[10] Múa lục cúng tương ứng
với số 6 trong nhà Phật như: Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi (nghi thức lễ Phật sám
hối 6 thời của đức vua Trần Thái Tông), Lục Độ Ba La Mật (Bố thí, Trì giới,
Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ), Lục hòa (nhãn hòa, nhĩ hòa, tỷ hòa,
thiệt hòa, thân hòa, ý hòa), Lục Niên Khổ Hạnh (sáu năm đức Phật tu trong
rừng), Lục Đại Tổ Sư (Bồ Đề Đạt Ma, Huệ
Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhãn, Huệ Năng).
[11] Người Chăm có bốn điệu múa dân gian chính:
múa Biyên, Kmân, Mrai, Chron.
[12] Đó, đăng là hai loại dụng cụ
dùng để đánh bắt cá trên ruộng, sông.
1 nhận xét:
uong collagen luc vao buoi sang hay buoi toi hôm nay, mình sẽ giải đáp thắc mắc này cho các bạn nhé!
bao nhiêu tuổi thì nên uống collagenchúng tôi luôi giải đáp mọi thắc mắc của các bạn. hãy đến vvowis chúng tôi chúng tôi là niềm tiên của bạn
uống collagen bao lâu thì mới có hiệu quảmọi vấn đề làm đẹp đều được chúng tôi tư vấn miễn phí nếu bạn đang phân vân một điều gì đó hãy đến với chúng tôi
cach nhan biet collagen youtheory that giabạn đang phân vân khi đứng giữa 2 dòng sản phẩm collagen nhưng bạn ko biết dòng nào thật sự tốt.? liệu mình có chọn phải hàng nhái hay không.? Mọi thắc mắc của bạn sẽ được chúng tôi giải đáp tại đây.
đang cho con bú có nên dùng kem dưỡng dakhong vaậy các mẹ
dung thuoc tranh thai hang ngay nhu the nao các mẹ có thể giúp em ko
bao nhiêu tuần thì biết con trai hay con gáicác chị ơi có thể cho em biết không
cho con bú co duoc nhuom tocem đang cần dc tư vấn
Đăng nhận xét