Nguyễn Thị Lan Anh
Nguyễn Hoàng Thân
Chuông chùa trên địa bàn
quận Liên Chiểu
Trong bài viết “Di sản văn hóa Hán
Nôm Đà Nẵng - nghiên cứu và giảng dạy” đăng trên Tạp chí Phát triển Kinh tế Xã hội Đà Nẵng, số 9 + 10 năm 2010 (in
lại trong Tam thập, nhà xuất bản Đà
Nẵng, 2010), chúng tôi có đề cập chuông chùa Đà Nẵng và đề xuất những hướng
nghiên cứu liên quan. Bài viết này được hình thành từ sự gợi mở nêu trên. Qua
đây, chúng tôi giới thiệu sâu kĩ thêm về chuông chùa trên địa bàn Liên Chiểu,
thành phố Đà Nẵng.
1. Phân bố về thời gian và không gian
Toàn quận
có 12 ngôi chùa đang sinh hoạt thì có 10 ngôi chùa có chuông. Trong đó chùa nào
cũng có ít nhất là một chiếc Đại hồng chung, có chùa còn có thêm gia trì chung,
như chùa Nam Hải có tới 4 chung gia trì, chùa Hải Vân Sơn, chùa Ba Sơn, chùa
Tịnh Quang có 2 chung gia trì và các ngôi chùa khác hầu như đều có 1 chiếc
chung gia trì.
Để tính sự
phân bố chuông trên địa bàn quận Liên Chiểu, trước hết cần xem xét về sự phân bố các ngôi chùa trên địa bàn quận. Là một quận có ít chùa nhất so với các
quận, huyện khác trong thành phố, mà lại phân bố không đều trên các vùng dân cư
theo địa lý hành chính, trong đó:
Phường Hòa
Minh có 5 ngôi chùa: chùa Quang Minh, chùa Phước Lộc, chùa Hải Vân Sơn, chùa
Tịnh Quang, chùa Bồ Đề Thiền Viện.
Phường Hòa
Khánh Bắc có 1 ngôi: chùa Đà Sơn
Phường Hòa
Khánh Nam
có 1 ngôi: chùa Minh Phước
Phường Hòa
Hiệp Bắc có 2 ngôi: chùa Kim Quang, chùa Nam Hải.
Phường Hòa
Hiệp Nam
có 2 ngôi: chùa Ba Sơn, chùa Nam Thành.
Như vậy,
tính theo sự phân bố về không gian giữa các ngôi chùa có chuông trên địa bàn
quận ta thấy phường Hòa Minh có nhiều chuông nhất, số lượng bằng chuông phường
Hòa Khánh và Hòa Hiệp cộng lại, điều này chứng tỏ người dân phường Hòa Minh rất
đông người sùng đạo Phật, đó chính là lý do nhiều ngôi chùa được xây dựng tập
trung nơi đây. Hiện phường Hòa Minh có thêm chùa Phước Lộc trùng tu lại cách
đây không lâu, và chùa đang phát tâm vận động Phật tử hỉ cúng để đúc chuông,
không lâu trong tương lai trên địa bàn quận Liên Chiểu sẽ có thêm chuông chùa
Phước lộc.
Cũng qua
quá trình điền dã, trực tiếp phỏng vấn các trụ trì, người trông nom chính tại
các chùa và qua tìm hiểu văn tự khắc trên chuông, chúng ta thấy rằng niên đại
đúc chuông của từng ngôi chùa là khác nhau. Trên địa bàn quận Liên Chiểu,
chuông có niên đại sớm nhất và cũng là một trong hai chiếc chuông cổ nhất thành
phố Đà Nẵng là chuông chùa Đà Sơn được đúc vào cuối niên hiệu Cảnh Hưng thứ 16
năm 1755, đây chính là tài liệu ghi lại nhờ văn khắc chữ Hán trên thân chuông “景 興 拾 六 年 冬 季 月 榖 日 鑄/Cảnh Hưng thập lục niên đông quý nguyệt cốc nhật
chú”. Chuông có niên đại sớm thứ hai là chuông chùa Nam Hải, đây cũng chính là
một trong những ngôi chùa cổ nhất tại quận Liên Chiểu, theo lời văn khắc trên
chuông: “佛 陀 應 世 二 千 五 百 年/ Phật đà ứng thế nhị thiên ngũ bách niên”,
như vậy chuông chùa Nam Hải được đúc vào khoảng năm 1956.
Ngoài ra,
cũng từ tài liệu dịch ra từ văn khắc bằng chữ Hán Nôm trên thân chuông, thì
chuông chùa Kim Quang được đúc năm 1965, chuông chùa Hải Vân Sơn đúc năm 1966,
chuông chùa Nam Thành đúc năm 1964, chuông chùa Quang Minh và chuông chùa Ba
Sơn được đúc vào năm 1976, chuông chùa Minh Phước và chuông chùa Tịnh Quang
được đúc năm 1972 và chùa có chuông đúc niên đại muộn nhất trong quận là chuông
chùa Bồ Đề Thiền Viện đúc năm 1997.
So với cả
nước và thành phố Đà Nẵng, ngoài chuông chùa Đà Sơn thì niên đại chuông chùa
quận Liên Chiểu rất muộn bởi nhiều lý do khác nhau: trước thế kỷ XIV (trước năm
1306) quận Liên Chiểu vẫn thuộc vùng đất của Chăm Pa, vì vậy khi đó nơi đây tồn
tại Phật giáo Chăm Pa. Sau này, với vị trí là cửa ngõ của thành phố, nơi khởi đầu
của sự giao tranh Nam tiến của người Đại Việt, vùng Liên Chiểu có sự di dân của
các vùng từ Huế vào, người Đại Việt vào trong này muộn, chùa xuất hiện muộn nên
chuông cũng ra đời muộn (hầu hết chuông chùa quận Liên Chiểu đều có niên đại
cùng với niên đại thành lập chùa, nếu có chênh lệch thì cũng không đáng kể).
Đạo Phật hoằng dương tại nơi này cũng muộn, tính cả thành phố Đà Nẵng có 2 quả
chuông có niên đại lâu nhất là chuông chùa Đà Sơn (quận Liên Chiểu) và chuông
chùa An Long (quận Hải Châu), trong đó chuông chùa Đà Sơn có niên đại lâu hơn
tới nay trên 350 năm. Về đời sống kinh tế người dân còn gặp nhiều khó khăn, từ
xưa tới nay, trong thành phố ngoài quận Thanh Khê và quận Hải Châu có kinh tế
phát triển, Liên Chiểu chỉ là quận ngoại vi, khi xưa người Việt mới vào lập
nghiệp dân cư thưa thớt, nên chùa chiền ít, ngày nay, dân số tăng, nhu cầu xây
dựng chùa ngày cũng vì đó mà tăng lên.
Nhìn vào sự
phân bố về thời gian của từng chiếc chuông để thấy niên đại hình thành và kỹ
thuật đúc chuông cùng thời với nó, những chiếc chuông có niên đại muộn thường
to hơn, dày hơn, chuông có bề mặt mịn hơn do kỹ thuật đúc đồng ngày càng hiện
đại hơn.
2. Kích cỡ và hoa văn
2.1. Kích cỡ
Từ việc đi
điền dã trực tiếp tại các ngôi chùa, khảo sát từng chiếc đại hồng chung, đo
đạc, phỏng vấn các vị trú trì, người trông nom quản lý chùa, dịch nghĩa các văn
tự khắc trên chuông và ghi chép, chúng tôi đã tập hợp bảng số liệu về kích cỡ
chuông chùa quận Liên Chiểu.
Do cách đo
đạc thủ công nên số liệu có thể không chính xác tuyệt đối từng mm, nhưng sự
chênh lệch không đáng kể.
BẢNG SỐ LIỆU VỀ KÍCH
CỠ CHUÔNG CHÙA QUẬN LIÊN CHIỂU
TT
|
Chuông Chùa
|
Chiều cao
(cm)
|
(cm)
|
(cm)
|
Cân nặng
(kg)
(~)
|
1
|
Ba Sơn
|
127
|
184
|
155
|
160
|
2
|
Bồ Đề Thiền Viện
|
172
|
297
|
245
|
650
|
3
|
Đà Sơn
|
147
|
211
|
180
|
450
|
4
|
Hải Vân Sơn
|
114
|
193
|
160
|
200
|
5
|
Kim Quang
|
114
|
173
|
145
|
160
|
6
|
Minh Phước
|
123
|
193
|
160
|
250
|
7
|
|
138
|
198
|
154
|
200
|
8
|
|
122
|
184
|
157
|
160
|
9
|
Quang Minh
|
140
|
228
|
192
|
400
|
10
|
Tịnh Quang
|
140
|
228
|
192
|
500
|
Để có được
bảng số liệu trên, chúng tôi trực tiếp dùng thước đo đạc từng chiếc chuông.
Chiều cao được tính từ đỉnh quai chuông xuống tới miệng chuông, chu vi đáy là
độ rộng gần miệng chuông. Chu vi gần đai
chuông là chu vi nhỏ nhất trên thân chuông, đây là điểm gắn với quai chuông. Riêng
về trọng lượng chuông thì có nhiều bất cập. Có một số chuông, chỉ số cân nặng
được khắc chính xác trực tiếp trên thân chuông, như chuông chùa Đà Sơn có ghi:
“洪
鍾
重
四
百
五
十
斤/Hồng chung trọng tứ bách ngũ thập cân” có nghĩa chuông này nặng 450 cân, hay chuông Ba Sơn
có ghi: “一百六十箕卢/nhất bách lục thập kilô” tức chuông nặng 160 kg. Việc cân
nặng của chuông phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có thể khi đúc chuông kinh tế dân
làng dư giả, đồng nhiều chuông sẽ đúc to hơn, hay mỗi chuông có độ dày mỏng
khác nhau, chuông càng dày thì càng nặng và càng mỏng thì càng nhẹ. Có chuông
không ghi rõ cân nặng như chuông chùa Tịnh Quang mà số liệu trên được trích
“Ngày 19/06 Nhâm Tý (1972) thầy Tịnh giác đã chú nguyện Đại hồng chung nặng
trên 500 cân, dưới sự chứng minh của hòa thượng Thích Tôn Thắng”[1].
Các chuông còn lại phần lớn lấy tư liệu từ việc phỏng vấn các trú trì và người
trông nom trong chùa, tuy rằng số liệu này chỉ ở dạng tương đối vì thật sự ít
ai đem chuông ra cân, chỉ nghe tương truyền lại mà thôi.
Nhìn vào
bảng số liệu, chuông chùa Bồ Đề Thiện Viện là có kích cỡ lớn nhất, chuông chùa
này to hơn hẳn mấy chuông chùa khác trong khu vực, lý do một phần do chuông mới
đúc cách đây không lâu, chuông có niên đại muộn nhất trong quận, lúc bấy giờ
kinh tế đã phát triển hơn trước, người dân có đủ kinh phí để thu mua đồng về
đóng chiếc chuông có cỡ lớn như vậy.
Chuông to
thứ hai là chuông chùa Tịnh Quang, tuy rằng kích thước của chuông này ngang
bằng chuông Quang Minh nhưng cũng có thể chuông được đúc dày hơn nên trọng
lượng lớn hơn. Hầu hết các quả chuông còn lại trong quận có kích thước ngang
ngang nhau, số đo có chênh lệnh, ngoài trừ chuông Đà Sơn thì các chuông còn lại
có dáng dấp tựa tựa nhau, thiết kế theo mẫu chuông chùa thời Nguyễn, cân nặng
tuy có chênh lệch nhưng chủ yếu vẫn là do độ dày mỏng của chiếc chuông đó thế
nào.
2.2. Hoa văn
Hoa văn in hay khắc trên các đồ vật xưa nay vẫn là
một dẫn liệu khá quan trọng giúp chúng ta nghiên cứu chuyên sâu hơn về giá trị
của hiện vật cần nghiên cứu, đơn giản khi các nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật
về họa tiết hoa văn của một đồ vật nào đó, ví dụ như hình chạm rồng chẳng hạn,
nhìn vào cách vẽ hay khắc hình dáng của rồng, người ta có thể đoán được đó là
rồng thời Nguyễn hay rồng thời Lê… Chuông chùa cũng vậy, dựa vào hình dáng, họa
tiết của hoa văn khắc trên chuông mà các nhà nghiên cứu có thể biết rõ hơn về
lịch sử cũng như giá trị văn hóa của từng chiếc chuông.
Quá trình
tìm hiểu về mười chiếc chuông trên địa bàn quận Liên Chiểu cho thấy: đa phần
các đại hồng chung có hoa văn trang trí rất đơn giản song nhìn vào bố cục chung
của chiếc chuông lại thấy rất thanh thoát và hài hòa, mỗi chiếc chuông có một
lối trang trí riêng, có phần thì giống với các chiếc chuông khác trong khu vực
song cũng có chỗ tạo nên điểm riêng cho từng chiếc chuông.
*Về
hình dáng chung
Đa phần
chuông trên địa bàn quận Liên Chiểu có dáng hơi bầu bầu, miệng loe, cách tạo
dáng chuông rất đẹp, mà các nhà nghiên cứu chuông cho rằng đó chính là dáng
chung của chuông thời Nguyễn lúc bấy giờ. Đối sánh với chuông cổ người Việt như
hai quả chuông cổ nhất Việt Nam là chuông Thanh Mai (Hà Tây cũ) và chuông Nhật
Tảo (Từ Liêm – Hà Nội), thấy rằng hình dáng chuông cổ Việt Nam có dạng trên to
dưới nhỏ giống chiếc nơm bắt cá của người Việt, hoàn toàn khác với hình dáng
của những chiếc chuông quận Liên Chiểu. Khi tìm hiểu chuông chùa quận Liên
Chiểu, chuông chùa Đà Sơn có dáng khác nhất so với các quả chuông trong khu
vực. Theo miêu tả của nhà nghiên cứu Lê Xuân Thông: “Dáng chuông xuôi thẳng,
thành choãi, vai gấp đột ngột, miệng gãy góc và loe rộng. Vì vậy, khi nhìn vào,
chúng ta có cảm giác khô cứng và có phần mất cân đối về tỷ lệ giữa chiều cao
với độ rộng trung bình của thân chuông, và nhất là giữa độ cao quai và thân”[2],
nhìn hình dáng tổng thể thấy chuông Đà Sơn có thể đã bị ảnh hưởng bởi dáng dấp
của văn hóa Chăm (nền văn hóa mang tín ngưỡng phồn thực sâu sắc).
*Về
quai chuông
Khi nhìn
vào quai chuông của những chiếc chuông quận Liên Chiểu mọi người sẽ dễ lầm
tưởng đó là hình ảnh của hai con rồng đấu lưng vào nhau. Nhưng thực chất trong
bài kệ Khai Hồng Chung[3]
có nêu: “Bồ lao nhất chuyển hướng chung thinh/ Phạm sát kình chùy chấn địa
minh/ Lục thú tài văn phiền não tức/ Tam đồ sạ thính khổ toan đình/ Nam mô Siêu
Thập Địa Bồ tát” (Con Bồ lao mỗi khi chuyển mình, dẫn theo tiếng chuông. Tiếng
chày cá kình ở cửa chùa làm chấn động cõi u minh. Sáu nẻo luân hồi vừa nghe
được thì phiền não dứt. Ba nẻo ác chợt nghe thì khổ đau dừng lại. Như vậy chính
xác thì con vật được đúc trên quai chuông là hai con Bồ lao. Theo truyền thuyết
dân gian, rồng có 9 con: Bị hí, Li vẫn, Bồ lao, Bệ ngạn, Thao thiết, Công phúc,
Nhai xế, Toan nghê, Tiêu đồ, Tù ngưu, Trào phong, Phụ hí. Bồ lao là con thứ ba
của rồng, là linh vật thích âm thanh lớn, tiếng kêu của nó rất to, vang rất xa,
thường được đúc trên quai chuông với mong muốn chiếc chuông được đúc có âm
thanh như ý muốn. Tất cả quai chuông ở quận Liên Chiểu đều hình con bồ lao 2
đầu, 4 chân bám vào chuông, mặt ngoảnh về hai hướng, miệng ngậm ngọc, tuy rằng
việc trang trí quai chuông ở các chùa khác nhau trong quận cũng có chút khác
biệt, có nơi trang trí bằng cạp bồ lao lớn, nơi nhỏ, có con có vẻ hiền dịu mềm
mại nhưng cũng có con hình thù dữ dằn hơn. Riêng con bồ lao trên quai chuông
chùa Bồ Đề Thiền Viện có vẻ to nhất, ngoài ra trên đấu lưng của con bồ lao có
trang trí thêm trụ hình hoa sen trong Phật giáo.
*Về
thân chuông
Hầu hết
chuông trên địa bàn quận Liên Chiểu đều trang trí hoa văn và bố trí văn tự
giống nhau, duy chỉ có chuông chùa Đà Sơn có khác một chút về cách bố trí trên
thân chuông.
Phía trên
cùng gần quai chuông thường là đường diềm chạy quanh chừng 5 – 7cm, được trang
trí khác nhau, có chuông khắc hình bánh xe pháp luân như chuông chùa Bồ Đề
Thiền Viện; chuông để trống như chuông chùa Nam Thành, chuông chùa Đà Sơn,
chuông chùa Nam Hải; chuông trang trí hoa sen như chuông chùa Minh Phước;
chuông trang trí lá bồ đề như chuông chùa Ba Sơn; chuông khắc chữ như chuông
chùa Nam Hải, chuông chùa Tịnh Quang, chuông chùa Kim Quang, chuông chùa Quang
Minh. Tiếp xuống cũng là một đường diềm trang trí hoa văn, thường thì người ta
khắc hình hoa sen hay lá bồ đề biểu trưng cho Phật giáo.
Phía giữa
thân chuông chính là phần chính, hầu hết các chuông đều chia thành 8 ô lớn, 4 ô
trên và 4 ô dưới. Để tiện cho việc miêu tả chúng tôi tạm gọi 4 ô phía trên là
A1, A2, A3, A4 và 4 ô phía dưới là B1,
B2, B3, B4. Riêng chuông chùa Đà Sơn chỉ gồm 4 ô chính (đây cũng chính là nét
cá biệt để nhận dạng chuông chùa thời Nguyễn và thời tiền Nguyễn).
Các ô ở vị
trí A1, A2, A3, A4 các chuông chùa thường dành để khắc 4 chữ Hán lớn về chuông
chùa của mình như: Kim Quang Tự Chung, Bồ Đề Thiền Viện… Còn với các ô B1, B2,
B3, B4 các chuông thường khắc những bài minh văn bằng chữ Hán, đôi khi có cả
chữ Phạn hay chữ Nôm, chữ Quốc ngữ. Và ở giữa các ô lớn thường là một đường chỉ
nổi chạy quanh thân chuông rộng chừng 10cm khắc hình bình bầu trong đồ Bát bửu
hay hình chữ Vạn trong Phật giáo.
Phía dưới
gần miệng chuông thường được trang trí bằng những dải hoa văn hình hoa cúc dây
– biểu trưng của sự trường tồn và tuổi thọ.
*Về
núm chuông
Hầu hết tất
cả các chuông trên địa bàn quận Liên Chiểu đều có 4 núm, 4 núm chuông tương ứng với 4 mặt Đông - Tây -
Nam - Bắc, và cũng được quy định cách đánh của 4 mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông,
mùa nào đánh vào núm chuông quy định của mùa đó, núm chuông được chạm dạng hình
mặt trời. Duy chỉ có núm chuông chùa Quang Minh được chạm bằng hình vòng thái
cực lưỡng nghi âm – dương. Và cũng chỉ có chuông chùa Đà Sơn là duy nhất có tới
8 núm chuông, ngoài 4 núm chính dùng để đánh chuông thì còn có thêm 4 núm nhỏ
bên trên cũng có thể chỉ làm họa tiết trang trí thêm cho chuông ngôi chùa này.
Xung quanh
4 núm chuông là mô típ trang trí phổ biến: “lưỡng long triều nhật”, hình ảnh
của hai con rồng chầu mặt trời lửa (biểu tượng của núm chuông). Ngoài ra, còn
phổ biến với hình chạm tứ linh “long – lân – quy – phụng vây quanh mặt trời”,
tứ linh trong tâm thức người Việt cổ mang sự giàu sang, phú quý, phúc thọ. Long
thể hiện sự nhanh nhẹn, uyển chuyển; Ly mạnh mẽ, kiên định; Quy biểu trưng cho
lâu dài, trường tồn; Phụng là sự giàu sang, phú quý. Hình ảnh rồng, rùa,
phượng, lân chạm với mây, gió uyển chuyển nhẹ nhàng, hư ảo tinh tế và đẹp mắt
nhưng tạo khí thiêng từ những con vật linh thiêng này. Riêng chuông chùa Nam
Hải, đường hoa văn dưới cùng gần miệng chuông là 8 biểu tượng của Bát quái:
Càn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn, Chấn, Ly, Đoài. Vừa có ý nghĩa chỉ 8 phương hướng,
vừa bao hàm tổng thể cả vũ trụ.
*Về
miệng chuông
Miệng
chuông trên tất cả chuông chùa trên địa bàn quận Liên Chiểu đều đúc loe ra.
Cách trang trí hoa văn có khác nhau, có chuông thì trang trí cầu kì, có chuông
thì trang trí đơn giản, nhưng lại có chuông bỏ trống, không trang trí.
Một số mô
típ chủ yếu được trang trí như: hình vân mây, hình sóng nước hay hình hoa sen.
Với miệng chuông chùa Đà Sơn, Kim Quang, Quang Minh người đúc sử dụng họa tiết
hình hoa sen. Hoa sen là loài hoa biểu trưng của Phật giáo, loài hoa mọc lên từ
bùn mà sắc hương thanh tao, bất nhiễm, sạch sẽ, đẹp dịu dàng và cũng là nơi khi
Phật sinh ra, 7 bước đi của Ngài trên 7 bông sen. Đó là hình ảnh thiêng liêng
của Phật giáo. Trên miệng chuông chùa Hải Vân Sơn, Tịnh Quang, Bồ Đề Thiền Viện
là đường diềm hình vân mây và sóng nước, dáng to khỏe, nối tiếp nhau xung quanh
miệng chuông, tạo thế chắc chắn cho miệng chuông, vừa mang tính thẩm mỹ nhưng
vừa mang ý nghĩa luân hồi của con người, hết kiếp này cho tới kiếp khác nối
tiếp nhau. Còn với chùa Minh Phước, Nam Thành, Ba Sơn, Nam Hải ưa lối đơn giản,
không cầu kì, bỏ trống, không trang trí gì cả.
3. Văn tự và nội dung văn chuông
Trải hàng ngàn năm lịch sử, người Việt Nam đã sử dụng chữ
Hán và chữ Nôm để sáng tác trước thuật, để ghi chép các công văn, tài liệu
và khắc trên bia đá, chuông đồng, biển gỗ, v.v.. và cùng nhiều loại tư liệu
thành văn khác, ngày nay chúng ta gọi chung là di sản Hán Nôm.
Văn khắc là một bộ phận
quan trọng trong nền văn hóa thành văn nói chung và di sản Hán Nôm nói riêng,
là hiện tượng văn hoá được nảy sinh từ đời sống xã hội, là nét đặc thù và là một
trong những hình thức thông tin thời kỳ cổ đại và trung cổ. Văn khắc xuất hiện
từ khá sớm, truyền thống sáng tạo văn khắc ở các nước sử dụng chữ tượng hình
(chữ khối vuông) bắt đầu từ Trung Quốc, sau đó được lan truyền sang các nước
như Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Văn tự khắc trên thân chuông là
nguồn sử liệu quan trọng, thường mỗi quả chuông chùa có những bài văn khắc mà nội
dung đôi khi không nhất thiết chỉ để thuyết giảng Phật pháp. Nó còn là một tác
phẩm văn học và là một nguồn sử liệu quý giá.
Quận Liên Chiểu có tổng cộng
10 chiếc Đại hồng chung tại mười chùa khác nhau. Xét về mặt giá trị, có thể nói
chuông chùa Đà Sơn mang trên mình nhiều giá trị nhất, không chỉ có giá trị về lịch
sử mà văn tự Hán Nôm được khắc trên thân chuông là nguồn tài liệu vô cùng quý
giá. Tuy vậy, 10 chiếc Đại Hồng chung nhưng chiếc nào cũng có những bài văn
minh bằng chữ Hán cả, đôi khi có chữ Phạn và chữ Nôm. Mỗi bài văn chuông mang một
ý nghĩa riêng, tạo giá trị riêng cho từng chiếc chuông, Nhờ đó mà các nhà
nghiên cứu có thể thẩm định được niên đại đúc chuông, hay những thông tin khác
liên quan tới ngôi chùa và chiếc chuông đó. Để rõ hơn cho công trình nghiên cứu
của mình, chúng tôi trình bày nguyên văn từng văn tự khắc trên từng quả chuông
trên địa bàn quận Liên Chiểu, có thêm phần phiên âm, dịch nghĩa và phụ chú.
Từ những
văn tự khắc trên chuông chùa trên địa bàn quận Liên Chiểu để thấy, đó chính là
những cứ liệu lịch sử chính xác nhất liên quan tới chiếc chuông hay ngôi chùa
mà có chiếc chuông đó.
Về nội dung
minh văn trên thân chuông chùa quận Liên Chiểu, nhìn chung, so với các quận
huyện khác trong thành phố Đà Nẵng cũng như trên cả nước có phần đơn giản. Tính
trong số mười chiếc chuông trong quận thì chỉ duy nhất chuông chùa Đà Sơn nội
dung khắc trên thân chuông là đầy đủ hơn cả. Nhìn vào nội dung minh văn được
trình bày phần trên, chúng ta thấy đa phần chuông trên địa bàn quận Liên Chiểu
đều có khắc bài “Minh chung” và “Văn chung”, năm đúc chuông, ngoài ra có thêm 4
chữ Hán cỡ lớn thể hiện triết lý Phật pháp hay mang tên chuông và chùa đó: Pháp
luân thường chuyển, Ba Sơn tự chung, Bồ Đề Thiền Viện… riêng chùa Nam Hải có
thêm biểu tượng của Bát quái, chuông chùa Đà Sơn khắc rõ nguồn gốc xuất xứ, ý
nghĩa tiếng chuông, cũng như cân nặng hay năm đúc chuông. Cũng bởi lý do đó mà
duy nhất chuông chùa Đà Sơn được thành phố công nhận di sản văn hóa và cũng là
chiếc chuông có giá trị nhất thành phố Đà Nẵng.
Văn tự khắc
trên chuông gồm nhiều loại chữ viết, đa phần là chữ Hán, có một số chuông khắc
thêm chữ Nôm như chuông chùa Minh Phước hay có chữ Phạn như chuông chùa Quang
Minh hay chuông chùa Nam Hải. Nhìn
chung, tuy rằng số lượng văn tự khắc trên thân chuông chùa quận Liên Chiểu
không nhiều nhưng với những gì chúng ta có được thì đó cũng là những sản phẩm
văn hóa đáng quý của dân tộc, thể hiện trình độ văn minh khắc chữ trên đồng của
dân tộc ta.
***
Có thể nói,
chuông chùa trên địa bàn quận Liên Chiểu tuy rằng không nhiều, văn tự khắc trên
chuông còn ít so với những chiếc chuông khác trong thành phố và cả nước, nhưng
không phải vì thế mà chuông chùa quận Liên Chiểu không mang giá trị gì cả. Cái
quý giá mà nó có được chính là nét văn hóa, là món ăn tinh thần không thể thiếu
với người dân quận Liên Chiểu, với những Tăng ni Phật tử, với những ai mộ đạo
và tôn thờ Phật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét