Bùi Văn Tiếng
Truyện cổ dân gian Việt Nam
với vấn đề dựng nước và giữ nước
1. Truyện cổ dân gian Việt Nam
có nhiều truyện chủ yếu phản ánh quá trình dựng nước của người
Việt. Truyền thuyết Sơn Tinh và Thủy Tinh kể về cuộc chạy đua giành công
chúa Mỵ Nương của hai vị thần Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, thực chất là sự thể hiện
tư duy địa - chính trị của người Việt cổ. Giữa Sơn-Tinh-miền-núi và
Thủy-Tinh-miền-biển, người Việt thời đại Hùng Vương sẽ chọn địa bàn nào để làm
trung tâm chính trị của nước Văn Lang? Câu trả lời là chọn địa bàn miền núi với
lợi thế thiên về phòng thủ của núi rừng - sự lựa chọn này kéo dài đến đời nhà
Đinh và nhà Tiền Lê. Với tư duy địa - chính trị như vậy nên sự thiên vị của vua
Hùng dành cho nhân vật Sơn Tinh khi ra đề thi cũng là điều dễ hiểu. Đương nhiên
người Việt cổ không hoàn toàn quay lưng với biển: Thủy-Tinh-miền-biển vẫn được
quyền ứng thí, vẫn có khả năng trở thành phương án được lựa chọn làm phò mã,
tức trên danh nghĩa vẫn được bình đẳng về cơ hội với Sơn-Tinh-miền-núi.
Thậm chí đảo hoang ngoài khơi xa vẫn nằm trong tầm nhìn
lẫn tầm với của vua Hùng, và qua truyện Sự tích quả dưa hấu có thể
thấy nhà vua từng hạ lệnh đày Mai An Tiêm ra một hoang đảo - là nơi mà nói theo
ngôn ngữ ngoại giao bây giờ là thuộc chủ quyền của nước Văn Lang trên biển.
Cũng qua truyện Sự tích quả dưa hấu, có thể thấy tư duy trọng nông của
người Việt cổ thể hiện trong chi tiết nghệ thuật Mai An Tiêm trồng dưa hấu trên
đảo thay vì đánh bắt cá dưới biển để mưu sinh. Tuy nhiên cũng có thể tiếp cận
chi tiết nghệ thuật này theo một cách nhìn khác: giữa không gian sống là biển
cả mênh mông, Mai An Tiêm không thể không bị tác động và đã trở thành nhân vật
đầu tiên của thế giới nghệ thuật truyện cổ dân gian Việt Nam có tư duy hướng
biển: Mai An Tiêm chính là người có công đưa quả dưa hấu vào thị trường kinh tế
biển.
Sự tích Trầu Cau và Sự tích Táo quân là hai truyện đề cao quan niệm
hôn nhân một vợ một chồng nhằm góp phần xác định mô hình gia đình làm giềng mối
cho kỷ cương xã hội đương thời. Thật ra thì chưa thấy có truyện cổ dân gian nào
không đề cao quan niệm hôn nhân một vợ một chồng, nhưng điểm độc đáo của Sự
tích Trầu Cau và Sự tích Táo quân là sự kết-nối-tay-ba-sau-cái-chết:
ở Sự tích Trầu Cau, sau khi chết người em hóa thành hòn đá vôi, người
anh hóa thành cây cau và người vợ hóa thành dây trầu hòa quyện cùng nhau trong
miệng người ăn trầu; còn ở Sự tích Táo quân, sau khi chết người vợ,
người chồng trước và người chồng sau đã trở thành ba vị thần táo ngồi bên nhau
trong góc bếp mọi nhà.
2. Lại cũng có nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam chủ yếu phản ánh quá
trình giữ nước như truyện kể về người anh hùng làng Gióng, hay truyện kể
về thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng Thuỷ... Nếu như hình ảnh con rồng bay
trên không lúc ban đêm và có khả năng phun lửa rất phổ biến trong nhiều
truyện cổ dân gian của vương quốc Anh và các nước Bắc Âu thì lần đầu tiên và
duy nhất trong truyện cổ dân gian Việt Nam xuất hiện con ngựa sắt có khả
năng phun lửa của người anh hùng làng Gióng. Chi tiết nghệ thuật độc đáo này
thể hiện quan niệm của người Việt về sự đồng hành giữa sức mạnh của lòng yêu
nước với sức mạnh của vũ khí hiện đại, bởi làm thế nào người anh hùng làng
Gióng có thể rượt đuổi giặc thù phương Bắc trên đồng đất quê hương bằng đôi
chân trần trụi, cho dù đó là đôi chân to lớn của người khổng lồ? và làm thế nào
có thể rượt đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi nếu hỏa lực không đủ mạnh, nếu
con ngựa sắt không đủ lửa để phun ra?
Cũng thể hiện quan niệm của người Việt về sự đồng
hành giữa sức mạnh của lòng yêu nước với sức mạnh của vũ khí hiện đại - chiếc
nỏ thần, nhưng truyện kể về thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng Thuỷ lại đi
theo một hướng khác: tổng kết kinh nghiệm thất bại - chứ không phải kinh nghiệm
chiến thắng - trong chiến tranh vệ quốc. Kinh nghiệm thất bại như một thông
điệp để đời của thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng Thuỷ là đừng bao giờ mang
“Trái tim nhầm chỗ để trên đầu - Nỏ thần vô ý trao tay giặc” (thơ Tố
Hữu), bởi với một kẻ thù xâm lược thâm độc và xảo quyệt luôn nói một đường làm
một nẻo như vậy mà mất cảnh giác, mà không bảo vệ được bí mật quốc gia, mà
không giữ kín được bí mật quân sự thì cũng đồng nghĩa với việc sớm đưa đất nước
rơi vào tay ngoại bang, sớm đưa dân tộc vào cảnh đời nô lệ.
3. Nhưng phân tích kỹ nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam thuộc đề tài này, có
thể thấy có sự đan xen giữa hai quá trình dựng nước và giữ nước, trong dựng
nước có giữ nước và trong giữ nước có dựng nước. Thánh Gióng là chuyện đánh
giặc giữ nước, mà cũng là chuyện dùng người tài, chuyện nhân cách (cách Gióng
vào cõi nhân gian đã phi thường, cách Gióng rời cõi nhân gian càng phi thường
hơn). Sơn Tinh - Thuỷ Tinh là chuyện tình tay ba, chuyện ông vua thiên vị, mà
cũng là chuyện đắp đê chống lụt - ở đây hiểu thiên tai là một loại kẻ
thù cần phải chống như địch họa (có khi hai loại kẻ thù này đến cùng
lúc: “Lụt bắc lụt nam máu đầm biên giới - Tay chống trời tay giữ nước căng
gân” - thơ Tố Hữu). Mỵ Châu - Trọng Thủy là chuyện xây thành và chế
tạo vũ khí hiện đại, là chuyện cảnh giác với hoạt động gián điệp, mà cũng là
chuyện hôn nhân có yếu tố nước ngoài và tình yêu không biên giới…
Truyện Sự tích Hồ Gươm thể hiện mối quan hệ giữa
giữ nước và dựng nước theo một nhãn quan khác. Truyện kể rằng đức Long Quân
quyết định cho nghĩa quân Lam Sơn mượn gươm thần để giết giặc và trong tay Lê
Lợi, thanh gươm thần tung hoành khắp các trận địa làm cho quân Minh kinh hồn
bạt vía, phải cam chịu thất bại mà rút khỏi nước ta. Như vậy Sự tích Hồ Gươm
cũng nằm trong mạch truyện cổ dân gian thể hiện quan niệm của người Việt về sự
đồng hành giữa sức mạnh của lòng yêu nước với sức mạnh của vũ khí hiện đại.
Nhưng Sự tích Hồ Gươm còn đi xa hơn truyện kể về người anh hùng làng
Gióng và truyện kể về thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng Thuỷ thông qua chi
tiết nghệ thuật rùa vàng đòi Lê Lợi trả lại gươm thần cho Long Vương ngay giữa
hồ Tả Vọng - nay đổi tên là Hồ Gươm hay còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm. Chi tiết nghệ
thuật trả lại gươm thần sau khi chiến thắng kẻ thù xâm lược chứng tỏ người Việt
thiện chiến chứ không hiếu chiến đồng thời chứng tỏ cái cần hơn
trong xây dựng hòa bình không phải là vũ khí hiện đại mà chính là lòng
dân. Thì chẳng phải quân Minh xâm lược nước ta hàng chục năm trời là do
trong thời bình, nhà Hồ đã không xây dựng được thế trận lòng dân - một
yếu tố sống còn như Hồ Nguyên Trừng con trai Hồ Quý Ly từng lo ngại: “Thần
không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi” đó sao? Tất nhiên trả
lại gươm thần không có nghĩa là thời bình không đòi hỏi phải mài sắc ý thức
cảnh giác, không đòi hỏi phải thường xuyên luyện tập thập bát ban võ nghệ, và
từ sau ngày Lê Lợi hoàn kiếm năm xưa, người Việt dẫu rất mong muốn được sống
hòa hiếu bình yên, cũng nhiều lần buộc phải mượn lại gươm thần và tuốt gươm ra
khỏi vỏ…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét