Võ Văn Hòe
Giao
thoa văn hóa Việt - Chăm
nhìn từ
ca dao
Theo Dương Quảng Hàm trong “Việt Nam văn học sử yếu”, định nghĩa: ca
dao (ca: hát; dao: bài hát không có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành
trong dân gian, thường tả tính tình, phong tục của người bình dân. Bởi thế ca
dao cũng gọi là phong dao (phong: phong tục) nữa.
Ca dao, theo “Từ
điền Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ do Hoàng Phê chủ biên, định nghĩa ca dao
là: 1. Thơ ca dân gian truyền miệng dưới hình thức những câu hát, không theo một
điệu nhất định, 2. Thể loại văn vần, thường làm theo thể lục bát, có hình thức
giống như ca dao cổ truyền [[1]]
Theo “Từ điển thuật
ngữ văn học” [[2]], cho rằng ca dao
còn gọi là phong dao. Ca là bài hát có điệu khúc, dao là bài hát không có điệu
khúc.
Trong tác phẩm “Ca
dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố Chăm”, tác giả Inrasara khảo luận về ca dao
người Chăm, không đưa ra định nghĩa về ca dao người Chăm mà giải thích thuật
ngữ ca dao: “Minh định ngữ nghĩa của thuật ngữ văn học Chăm và đối chiếu với
thuật ngữ tiếng Việt là một điều khó khăn nhưng cần thiết. Khó khăn vì đây là
một việc làm hoàn toàn mới mẻ trong khi tư liệu công cụ lại thiếu thốn. Cần
thiết vì chẳng những nó giúp cho người đọc có căn bản tiếng phổ thông tìm được
từ tiếng Chăm tương ứng mà còn giúp chúng ta một số tiêu chí để phân định các
chủng loại văn học Chăm nói chung, và văn học dân gian Chăm nói riêng”. [[3]] Tuy nhiên, sau đó
ở phần trình bày về ca dao, tác giả Inrasara phát biểu, rằng: “Nội dung thế sự
trong ca dao Chăm bao gồm những nhận định về sinh hoạt thường ngày, về cảnh trí thiên nhiên và về cuộc sống nói
chung. Nhiều câu ca dao Chăm còn nói lên được những tình cảm quan trọng giữa người với người” (in nghiêng do V.V.H.
nhấn mạnh). Theo đó, ta có thể thấy sinh
hoạt thường ngày chính là phong tục, tập quán, là thói quen thường ngày của
con người trong sinh hoạt gia đình, làng xóm, xã hội, còn tình cảm trong quan hệ giữa người với người chính là tính tình của
người bình dân. Theo quan niệm đó, xét ra ca dao người Việt và người Chăm có sự
giao thoa tương đồng, tiếp biến nhau trong quá trình giao lưu, cho - nhận và
phát triển.
Từ những nhận định trên, chúng tôi khảo sát 42 đơn vị ca
dao trong tác phẩm “Ca dao, tục ngữ,
thành ngữ, câu đố” của tác giả Inrasara (Sđd) và 10 câu ca dao Chăm trong
tác phẩm “Nếp sống cổ truyền người Chăm,
huyện Vân Canh tỉnh Bình Định” của tác giả Nguyễn Xuân Nhân, Đoàn Văn Téo [[4]], đối chiếu với 2.763 đơn vị ca dao trong tác phẩm “Ca dao, dân ca đất Quảng” [[5]], 80 đơn vị ca dao
người Việt miền Trung về chiếc nón trong tác phẩm “Một số nghề, làng nghề truyền thống và văn hóa ẩm thực vùng đất Khánh
Hòa”[[6]], có thể nói rằng
về thể ca dao lục bát của người Việt có ảnh hưởng, tiếp biến sang thơ lục bát,
ca dao, trường ca/ariya người Chăm, thảng vẫn có trường hợp một tác phẩm không
giao thoa nhau cả vần và nhịp điệu theo đặc trưng thể loại ca dao lục bát. Qua
khảo sát cho thấy, ca dao người Việt miền Trung và người Chăm thường giao thoa,
tiếp biến nhau trên cơ sở sự biến thể của thể loại. Trường hợp khảo sát trường
ca Hbia tà lúi – kalipu của người
Chăm ở Phú Yên với ca dao người Việt miền Trung cho thấy điều đó. Đấy là những
ca dao lục bát biến thể, câu dài ngắn không giống nhau, gieo vần không theo
luật định, về phân phối nhịp điệu có nhịp chẵn 2/2, nhưng cũng có chen xen nhịp
3/3.
Sau đây là bài ca
dao biến thể của người Việt miền Trung:
- Con nhà ai/ nho nhỏ/ mà to gan
Về
nhà/ con khóc/ vợ rên
Hương
trên/xã dưới/ bốn bên/ xì xèo
Vịn
vai chàng/ nước mắt /chảy xuôi
Ai
làm/ nên nỗi/ đôi đứa tui/ thế này
Bước
chân/ xuống bến/ tàu Tây
Chân
tròi/ góc bể /biết rày /còn gặp
không
Dậm
chân /đấm ngực /kêu trời
Vợ
chồng /gần gũi/ chưa mấy năm trời/
lại xa
Xứ
người/ đất lạ /xông pha
Bài
ca dao biến thể của người Chăm:
-
Mắm chẳng có/ trong chai
Chân
mang giày/, ta đi/ xuống phố
Gạo
chẳng có/ trong khương
Mặc
váy ngang/, ăn hàng/ giữa chợ
Cá
chẳng có/ trong xoong
Khảo
sát thể ca dao người Việt miền Trung và ca dao người Chăm, cho thấy: về luật
6/8 của ca dao Việt, là:
Câu
6 : b b
t t b b
Câu
8 : b b
t t b
b t b
(Chữ
nghiêng không nhất thiết phải theo đúng luật. Câu ca dao/lục bát người Việt
tuân thủ theo luật: nhất, tam, ngũ bất
luận; nhị, tứ, lục phân minh).
Chúng
tôi khảo sát, đối chiếu 52 đơn vị ca dao trong hai tác phẩm đơn vị ca dao của
người Việt miền Trung và người Chăm nêu trên, có thể rút ra nhận xét sau:
- Ca dao người Chăm không ảnh
hưởng cách gieo vần như ca dao người Việt mà phương thức gieo vần như Nghiêm
Thẩm đã nhận xét trong Tạp chí nguyệt san Quê
Hương (số tháng 6–1962) và mười năm sau đó, nhạc sỹ Phạm Duy đã khảo sát
trong sách “Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam”
xuất bản năm 1972 tại Sài Gòn cũng đưa ra nhận xét như Nghiêm Thẩm: âm thứ sáu câu sáu vần với âm thứ tư câu tám, tức lục bát Chăm gieo vần
lưng, chữ thứ sáu dòng lục hiệp với chữ thứ tư dòng bát. Chẳng hạn:
-
Ciim đơm di dhan kluw pluh,
Ciim
nau mưsuh klak dhan mưjwa. [[10]]
-
Thei mai mưng deh theo o
Drơh phik kơu lo yaum sa urang
Ai
đến từ đằng kia xa
Giồng
người yêu ta riêng chỉ một người.
(Panwơc
Paddit – ca dao)
Điều
này cũng đễ nhận thấy qua khảo sát ca dao người Việt, hiện tượng tương đồng này
xuất hiện trong ca dao Việt:
Trèo
lên cây bưởi hái hoa
Bước
xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
(ca
dao)
Nhưng
khi chuyển ngữ sang lời ăn tiếng nói người Việt miền Trung thì lại tiếp nhận
luật của ca dao lục bát người Việt, tuy nhiên cũng như người Việt miền Trung,
chỉ chú trọng chữ thứ sáu mà thôi, còn các chữ ở vị trí nhất, tam, ngũ phối trí thanh tự do theo thao tác kết hợp:
(-
Băm con chim/ đậu trên cành,
Chim
đi /chiến đấu/ bỏ cành/ vắng
hoang).[[11]]
Và:
Cơk
glaung glai cơng mưng nak,
Kuw maung mai wơk
o bboh dhan phun.
(- Núi cao/ rừng lá /che
ngang,
Ngoái nhìn /nào thấy/
bóng làng /ta đâu.)
Hoặc:
- Thei thuw ka tian kuw
lipa,
Nhjơm par di ia mưng thuw ka tian.
(-Lòng ta/ ai có/ thấu chăng,
b
b b t
t b
Bèo
dưới sông /mới hiểu /tâm tình này.) [[12]]
b
t b t
t b b
b
-
Câu chuyển ngữ trên là một biến thể [[13]]
của ca dao lục bát mà ta thường gặp trong kho tàng ca dao người Việt miền
Trung. Ca dao người Chăm và người Việt miền Trung thường gặp nhau trong lối ca
dao biến thể này, đặc biệt trong ariya Bini Cam. Chẳng hạn sự biến thể như sau
đây có thể tìm thấy rất nhiều trong kho tàng ca dao người Việt miền Trung và
của người Chăm:
Của người Việt:
-Tay anh cầm/ cần câu trúc,/ lưỡi câu thau
Muốn câu/ con cá
biển/ chớ con cá đồng/ thiếu chi.
- Đứng bên ni/ sông Hàn
Ngó qua bên tê /Hà Thân/ nước xanh/ như tàu lá
Đứng bên ni /Hà Thân
Ngó qua/ bên tê Hàn/ phố xá/ nghênh ngang
Từ ngày/ Tây lại/ Sứ sang
Đào sông/ Câu Nhí, /bòn vàng /Bồng Miêu
Dăn tấm lòng/ ai dỗ/ em đừng xiêu
Gắng công/ nuôi phụ mẫu /sớm chiều/ có ta ! [[14]]
Của người Chăm:
- Chăm – Bà ni /đâu xa
Cùng màu da, /cùng lòng máu
Chăm – Bà ni/ đâu khó
Cát lồi /chung hạt,/ nước chung nồi
Chăm lấy Bàni /được thôi
Ai rằng/ chẳng được /tội người /ấy mang.
...
- Lân Đất Cày toàn là pday chơ
Hmau jieh kagân ploh jieh chơtroh
lô
Xoh hmau halươi ngăh lân nil
Chăm H’roi aĩh ngăh bưng lân nil
Chontrah thoah kah jieh kagân
Chuh, choh xưng lân soi aphuh
Hmau lân soi nà, pla kơtor aphươi
Kơtor, aphươi chăh chơ kôh êm
Kơtoi, aphơi lô chơkah bưng ploh
Ani, xoh lo mơpa tưng. [[15]]
Chuyển ngữ:
Vùng Đất Cày/ toàn rừng núi
Có sông/ Hà Thanh/ và nhiều/ khe suối
Chưa có ai/ khai phá/ đất cày
Người Chăm/ H’roi/ khai phá/ đất này
Phát dọn cây/ hai bên bờ/ sông Hà Thanh
Đốt, cuốc đất thành soi nà rộng lớn
Có đất thục rồi ta trồng bắp, mì
Báp, mì mọc lên tốt tươi
Bắp, mì thu hoạch ăn uống dư thừa
Bây giờ không sợ đói nữa.
- Pơlông Đất Cày – Vân Canh ari a
ni
Pơđêh a nghinh thu lân
Chơai nao chơma lum pga kơjău boh
ngon
Tum thun nao lơkao
Mơnih ađău đoh lum lân
Ơi ! Puchơ ra, pu chơ đăm
Dù naopơkăh juôi
P’lây Chăm ađău đoh nhớ hoài.[[16]]
Chuyển ngữ :
Đất Cày - Vân Canh ngày nay
Vẫn nắng-gió và khô hanh
Anh qua bao vườn cây trái ngọt
Mấy trăm năm rồi
Những người xưa không mất
Người xưa lẫn vào đất
Ơi con gái, con trai
Dù có đi mãi đâu
Cũng nhớ hoài hồn làng.
- Aw juk danuk dalam
Tamư bhum Bicam Ppo Harim Mưh
Rang ngap banơk ga cơk
Kal tada cơk Ppo ngap bimong
Rang ngap banơk gania
Kal tada cơk Ppo rơp bomong
Mưkal Kalaung jwa đei
Chuyển ngữ :
Áo đen, ôi lũng sâu
Vào đất Ma Lâm thăm Po Harim Mưk
Người đắp đập ngang núi
San sườn núi, Ngài dựng ngọn tháp
Người đắp đập ngang sông
Phả núi bằng, Ngài xây ngọn tháp
Xưa đất Kalong vắng lạnh
Hôm nay núi có Po Harim
Xưa đất Kalong hiu quạnh
Hôm nay núi có xóm thôn.
-Caik tian mưyut thei biai
Tamuh di hatai ai saung adei
Caik tian mưyut saung dei
Calah nau halei, hatai pađik ruw
Caik tian mưyut thei thuw
Rabbah lo than kuw,
biak duh hatai
Sa bbơng mưyut saung ai
Ngap yuw gilai
dơng krưk tathik
Kak tian kuw bbơng nhjơm phik
Cang ppo lingik jai mai wơk taum [[18]]
Chuyển ngữ:
Yêu nhau chẳng kẻ vẽ bày
Lòng ta chớm nở tình này mà thôi
Yêu nhau mong được chung đôi
Tình sao xa cách mãi cho người thêm đau
Yêu thương ai hiểu cho nhau
Khổ tâm ta với mối sầu
tương tư
Yêu nhau biết mấy cho vừa
Lênh đênh biển sóng em như cánh buồm
Ăn rau đắng, nén nỗi lòng
Gió xô xum họp, chỉ còn mong ơn trời.
Của người Chăm
Wơy
ia tanưh lahơm lahơm
1 2
3-4 5-6 7-8
Mưng Bal Canar wơk nau Harơk Kah
1 2
3-4 5 6
7-8 9
Tanran riya glai glaung lawah
1-2 3-4
5 6-7 8
Than ia rabbah ke tawak takai nai
1 2
3-4 5 6-7
8-9 10
Ca dao biến thể như vậy rất tự do
trong âm tiết.
Những câu ca dao có lối biến thể như trình bày trên
được thể hiện trong lời ăn tiếng nói dân gian Việt – Chăm, chúng ta có thể thấy
sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau về thể loại giữa ca dao người Việt miền Trung
với ca dao người Chăm.
Khi chuyển ngữ từ Chăm sang Việt, câu ca dao theo
phương thức gieo vần của ca dao người Việt, nhưng thỉnh thoảng vẫn có một vài
nghệ nhân dân gian gieo vần ở chữ thứ sáu câu sáu với chữ thứ tư câu tám, thế
nhưng trong khi tuyệt đại đa số ca dao lục bát Việt hiệp vần ở chữ thứ sáu thì
lục bát Chăm không hề thay đổi gieo vần lưng.
Nội dung phản ánh trong ca dao người Việt và người
Chăm cũng có sự gặp nhau trong phản ảnh môi trường, điều kiện lao động sản
xuất, trong tình yêu quê hương đất nước, trong quan hệ xóm làng, trong các sự
kiện lịch sử tại địa phương, trong tình yêu lứa đôi,... Về nội dung như thế cho
chúng ta ngày nay biết được rằng, người Việt miền Trung và người Chăm xưa kia
đã có sự giao thoa, tiếp biến hình thức ca dao và cả nội dung phản ánh. Qua
khảo sát ca dao Chăm, điều cho chúng ta biết được phương thức gieo vần của ca
dao người Chăm không giống cách gieo vần của ca da người Việt. Điều chắc chắn
rằng khi câu ca dao có niêm luật đúng là thể loại sáu tám thường tuân thủ theo:
nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân
minh từ đồng bằng Bắc bộ đi dần vào Nam đã có sự lệch đi so với phương
thức gieo vần như bản thân mà nó vốn có. Đó là sự biến thể của ca dao lục bát
nhằm phù hợp với cơ sở thực tiễn của người Việt miền Trung khi giao thoa với
người Chăm, Co, Ve, Cờ tu,... bản địa. VVH.
[2] Từ điển thuật ngữ văn học, Chủ biên: Lê
Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, NXB. GD, 1992.
[4] Nếp sống cổ truyền người Chăm, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định, Hội VNDG Việt Nam, NXB. LĐ. 2011.
[6] Một số nghề, làng nghề truyền thống và văn hóa ẩm thực vùng đất Khánh
Hòa, Hội VNDG Việt Nam, NXB Lao động, 2011.
[7] Lính mộ: lính đánh thuê thời thuộc Pháp,
được mộ sang Châu Âu tham gia chiến tranh thế giới.
[9]
Trong: Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố
Chăm, Inrasara, NXB. VHDT. 2006. Tr. 21.
[10] Nguồn: Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố,
Inrasara, NXB VHDT, 2006. Tr 18.
[11] Nguồn: Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố,
Inrasara. Sđd.
[12] Nguồn: Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố,
Inrasara. Sđd.
[13]
Biến thể là thể văn có biến đổi đi. Thể này cũng là thể lục bát, nhưng thỉnh
thoảng có chen vào một ít câu mà cách hiệp vần và luật bằng trắc khác thể lục
bát truyền thống. Thể biến thể này người Việt thường dùng để viết truyện Nôm
khuyết danh: Phạm Công Cúc Hoa,…người Chăm giao thoa với thể biến này thể hiện
phần nhiều trong các truyện arija/trường ca.
[14]
Trong Ca dao, dân ca đất Quảng, Hội
VNDG. Việt Nam .
NXB. ĐHQG. 2010.
[15]
Nguồn: Nếp sống cổ truyền người Chăm,
huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định, Hội VNDG Việt Nam , NXB. LĐ. 2011.
[16]
Nguồn: Nếp sống cổ truyền người Chăm,
huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định, Hội VNDG Việt Nam , NXB. LĐ. 2011.
[17] Nguồn: Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố,
Inrasara. Sđd.
[18] Nguồn: Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố,
Inrasara. Sđd.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét