Võ Văn
Hòe
Giao thoa văn hóa Việt -
Chăm
nhìn từ đồng dao (同谣)
Đồng dao theo Dương Quảng Hàm
trong sách "Việt Nam văn học sử yếu", định
nghĩa: "đồng dao là các bài hát của trẻ con" (đồng dao). Trong Tạp
chí Văn học số 4/1974, GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh trong bài "Đồng dao với cuộc sống dân tộc Thái ở Tây
Bắc", đã viết rằng, "Trong môi trường sinh hoạt mỗi bài đồng dao
là một thể kết hợp văn hóa - văn nghệ dân gian. Thông thường nó gồm ba yếu tố:
trò chơi, lời ca văn vẻ, làn điệu âm nhạc. Cũng có một số bài có hai yếu tố, và
lời ca là âm nhạc. Mỗi yếu tố hợp thành đã đóng vai trò của một thành viên
không thể cắt rời của thể kết hợp đó". [[1]].
Trong sách "Văn học Chăm"
tác giả Inrasara cho rằng: "Đồng dao Chăm là những bài thơ có vần điệu
được trẻ con Chăm hát truyền khẩu cho nhau qua nhiều thế hệ". [[2]]
Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ
biên định nghĩa đồng dao: "là lời hát dân gian truyền miệng của trẻ em,
thường kèm một trò chơi nhất định". [[3]]
Hiện tại xét về mặt đồng đại,
đồng dao không còn được các em tập trung
tổ chức hát, chơi trò chơi đi kèm, thường xuyên tại các trường học, thôn làng,
nên việc sưu tầm ghi chép lại thể loại văn học này trên một địa bàn cư trú cụ
thể gặp khó khăn không ít. Tuy nhiên, thảng vẫn còn nhưng các em chỉ đọc đồng
dao để nghe với nhau, hoặc được tổ chức dàn dựng đưa lên sân khấu hoặc truyền
hình, hoặc tổ chức trong các trường Tiểu học với chủ đề chung "Trường học
thân thiện", theo đó đồng dao mất tính xác thực như nó đã vốn có cả về từ
ngữ lẫn trò chơi và nhịp điệu đi kèm.
Trong bài viết này, chúng tôi
khảo sát đồng dao người Việt, người Việt miền Trung và người Chăm để tìm nét
tương đồng hoặc có giao thoa nhau trong tiến trình giao lưu, tiếp biến văn hóa
dân gian khu vực miền Trung Việt Nam. Thực hiện lát cắt trên quan điểm đồng đại
để tìm hiểu trong một giai đoạn diễn biến từ khi người Việt đặt chân vào phương
nam, muộn nhất từ năm 1471 đến đầu thế kỷ XX làm đối tượng cho nghiên cứu, đối
sánh để tìm hiểu sự tương đồng, giao thoa trong đồng dao của trẻ em người Việt
- Chăm.
Qua khảo sát, xem xét 20 đơn
vị đồng dao trẻ em người Chăm trong sách: "Văn học Chăm" của tác giả Inrasara, đối chiếu với 16 đơn vị
đồng dao sách "Văn hóa dân gian Hòa
Vang" [[4]],
"Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà
Nẵng" (tập 1/1983), một số đơn vị
đồng dao trẻ em ở Khánh Hòa (mạng internet), và 713 đơn vị đồng dao
trong sách “Đồng dao người Việt” [[5]]
cho thấy các bài đồng dao trẻ em người Việt có thể loại kết hợp mỗi câu 2
tiếng, 3, 4, 5, 6, 7 và có câu lục bát 6/8. Qua đối chiếu với ca dao trẻ em
Chăm rất ít bài đồng dao có câu 3, 4 tiếng (có 2/20), ít tìm thấy thể đồng dao
2 tiếng, 3, 4, 5, 6, 7 tiếng mà tập trung phần nhiều là các bài đồng dao hỗn
hợp, có bài câu 3 tiếng lẫn với câu 4, 5 tiếng, do đó bài đồng dao của trẻ em
Chăm câu có số tiếng không bằng nhau. Ngược lại trong đồng dao trẻ em người
Việt miền Trung cơ cấu câu 2 tiếng đến 3, 4, 5, 6, 7, và câu lục bát 6/8 vẫn có
và chiếm tỉ lệ lớn. Tuy nhiên vẫn có trường hợp đan xen câu 3 tiếng đến 4
tiếng, có khi 2 tiếng trong một bài như đồng dao trẻ em Chăm. Ví dụ bài đồng
dao sau đây của trẻ em người Việt, mỗi câu 3 tiếng, nhưng vẫn phá vở tiết tấu
để thể hiện thanh điệu, ngữ điệu và nhịp trong biểu hiện gắn với trò chơi cùng
với lời càng lúc càng nhanh dần:
-Đúc
cây dừa
Chừa
cây nạng
Cây
lồng ống
Cây bí
đao
Cây
nào cao
Cây
nào thấp
Cây
nào rập
Cây
nào rà
Mồng
tơi, bí đỏ
Quan
văn, quan võ
Ăn
cắp trứng gà
Bọ
xa, bọ xít
Bò ra
tay này
Mà
gầy tay nọ
Mà bỏ
tay ni !
bài đồng dao trẻ em Chăm thể
3 tiếng:
-Kwik
kwik
Kwik
dik cabbak
kơu
lauk gilaung
Kwik
hu kaung
Kơu
hu krah
Kwik
hu brah
Kơu
hu jien...
Kwik
Kwik
Kwik
leo cổng
Tao
chui rào
Kwik
có còng
Tao có
nhẫn
Kwik
có gạo
Tao
có tiền...
Bài đồng dao trẻ em Việt thể 4
tiếng:
-Ru ru kiến kiến
Con kiến ở nhà
Con gà bươi bếp
Con rệp thắp hương
Chàn hương bới tóc
Cá nóc cầm chèo
Co mèo tát nước
Con vạc đi ăn
Mụ vằn đi chợ
Mua mật mua mỡ
Về cho kiến ăn
Làm nhà năm căn
Cho con kiến ở
Kiến không thèm ở
Kiến bỏ kiến đi.
Bài
đồng dao của người Chăm thể 4 tiếng/câu:
-Bluk bluk blu blu
Gà chú một đôi
Bồ câu một giỏ
Phát rừng làm rẫy
Rẫy chú trồng đậu
Đậu chú xanh xanh
Cà chú lớp lớp
Cơm nước no bụng.
(Bluk
bluk blu blu
Mưnuk cei sa
yơu
Katrơu cei sa habai
Jah glai ngap puh
Puh cei pala ritak
Ritak cei vei vei
Traung cei dak dak
Cei hwak trei tung).
Bài sau đây của trẻ em người Chăm là
tổng hợp câu có số tiếng không bằng nhau:
Con
chồn lội bẫy
Nắm
lấy cẳng
Quảng
vào cột
Đứng
trước mặt mẹ Japlwai.
(Japlwai lwai
ia
Mưja hwa gaiy
Pan di laiy
Cabauh
di gơng
Ong
Dơm Sơng
Ânk
maik Japlwai.)
Bài
đồng dao trẻ em Việt miền Trung có số tiếng 4, 5, 7 đan xen nhau, tương đồng
với đồng dao trẻ em Chăm:
-Đàn
dê lên rừng
Thấy
hang hổ xám
Thì
dừng lại ngay
Hổ
xám có nhà không?
Hổ
xám còn rình mồi!
Hổ
xám rình mồi chi?
Rình
mồi bắt đàn dê đầu đàn!
Dê
đầu đàn húc lại?
Hổ
xám rình bắt dê con!
Dê
con chạy nhanh
Cả
đàn che chở [[8]].
Theo đó, cho thấy rằng thể
đồng dao trẻ em Chăm là thể loại hỗn hợp câu 2, 3, 4, đến 5 tiếng đan xen nhau
trong một bài đồng dao, do đó phối thanh không đồng đều và đôi khi không đối
thanh, mà thường thể hiện nội dung là chủ yếu của bài đồng dao. Điều này thấy
có sự giống nhau không điển hình giữa đồng dao trẻ em người Việt miền Trung và
đồng dao trẻ em Chăm.
Có
thể nhận thấy trong đồng dao trẻ em Chăm và trẻ em Việt miền Trung vẫn có sự
tương đồng nhau trong thể 4 tiếng, có đan xen 3 tiếng/câu, khi ấy vấn đề nhịp
điệu vẫn được xem là có sự tương đồng nhau và cả vần lưng cũng được thể hiện.
Đồng dao trẻ em Việt có nhịp 2/2, 2/4, 3/3,… thì đồng dao trẻ em Chăm vẫn có
các loại nhịp như vậy.
Ví
dụ: nhịp 2/3, 3/3 đan xen nhau:
- Ppok jaung / Đaung đak
Cadak
mưhlei
Lisei
hwak / Ia mưhum
Tum
rideh / Tâtih ai bilan
Pôk
jong / cong thẳng
Bắn bông / cơm ăn ước
uống
Tum xe tròn / Hệt quầng
trăng
Cá dưới sông / Cọp trong
rừng …
Hoặc nhịp 3/3:
- Japlwai lwai ia / Mựa hwa gaiy
Pan
di laiy / Cabauh di gơng
Ong
Dơm Xơng / Anak maik Japlwai
Japlôi
lội nước / Chồn kéo ghe
Nắm
lấy cẳng / Quảng vào cột
Ông
Dơm Sơng / Trước mặt mẹ Japlôi.
(…)
Một
số bài đồng dao trẻ em Chăm và trẻ em Việt miền Trung tuy về thể đồng dao có
khác nhau, nội dung thể hiện khác nhau trong sử dụng lời ăn tiếng nói, nhưng
tựu trung phản ảnh các sinh hoạt thường ngày của trẻ em nên vẫn có sự tương
đồng nhau trong cách thể hiện trò chơi, như các sự vật và hiện tượng chung
quanh các em trong nhà, xóm, làng được phản ảnh, hoặc đọc lời đồng dao cho nhau
nghe trong những giờ vui chơi.
Ví dụ bài đồng dao sau đây của
trẻ em Chăm có cách thể hiện đối đáp
giống với trẻ em Việt như bài Rồng rắn
lên cây (chỉ giống hình thức đối đáp nhau mà thôi, còn nội dung phản ánh
lại khác):
Cò ơi sao mày ốm nhom? Do tôm không nổi
Tôm ơi sao mày không nổi? Bởi cỏ quá
nhiều
Cỏ ơi sao lại mọc nhiều? Trâu chẳng
chịu ăn
Trâu ơi sao chẳng chịu ăn? Thằng cọc
không mở
Cọc ơi sao mày không mở? Thằng Sứt
không chăn
Sứt ơi sao mày không chăn? Bởi đau
bụng
Bụng ơi sao lại kêu đau? Do cơm sống
Cơm ơi sao mi lại sống? Bởi củi mục
Củi ơi sao mi ướt mục? Mưa phùn dầm
dề
Mưa nhé sao mãi dầm dề? Lũ nhái kêu la
Nhái ơi sao bay kêu la? Bởi trời sinh ra ta đã vậy.
(Akauk hagait hư lavang? Hadang o dong
Hadang
hagait o dong? Harơk ralo
Harơk
hagait hư ralo? Kbaw o talaih
Kabaw
hagait o bbơng? Jamơng o talaih
Jamơng
hagait Jabbaih o glơng
Jabbaih
hagait o glơng? Tian pađik
Tian
hagait hư paik? Lisei mưtah
Lisei
hâgit hư mưtah? Nhjuh bauk
Nhjuh
hagait hư bauk? Hận tâthiy
Hận
hagait hư tâthiy? Kiep cadu
Kiep
hagait hư cadu? Ywa lingik padauk kơu yơu nan.)
Bài
đồng dao sau đây của trẻ em Việt miền Trung có hình thức trò chơi hỏi đáp tương
đồng nhau:
-Rồng rắn lên cây
Cây có bóng mát
Có bà chủ nhà không?
Không!
Có bà chủ nhà không?
Không!
Có bà chủ nhà không?
Có!
Cho xin tí lửa?
Lửa tắt!
Cho xin cái quạt?
Quạt chưa mua!
Cho xin cái đảy?
Cái đảy đựng trầu!
Cho xin cái đầu?
Đầu cứng!
Cho xin khúc giữa?
Giữa xương!
Cho xin cái đuôi?
Đuôi mềm! Bắt được cái đuôi thì ăn! [[9]]
Trong điều kiện
sưu tầm số lượng đồng dao trẻ em người Việt miền Trung và trẻ em Chăm còn lại
không nhiều, chúng tôi khảo sát 20 đơn vị đồng dao như vậy chưa nói lên được sự
giao thoa, tiếp biến lẫn nhau, do đó vẫn chưa phong phú trong cách thể hiện tìm
ra nét tương đồng mang tính phổ biến được. Trong đồng dao trẻ em Việt và trẻ em
Chăm môi trường tự nhiên, các loài thú luôn là chủ đề phản ảnh, ngợi khen hoặc
phê phán, bởi đây là môi trường mà các em thường xuyên tiếp xúc khi còn nhỏ.
Chính vì vậy trong đồng dao của các em thường phản ảnh thiên nhiên, con người ở
mức độ tiếp cận nhẹ nhàng, chưa sâu sắc, chưa mang tính triết lý hay tư duy lô
gích về sự vật và hiện tượng thiên nhiên, con người một cách đầy đủ các thuộc
tính vốn có. Tuy nhiên, qua đây cho thấy có yếu tố tương đồng dễ nhìn thấy
trong đồng dao trẻ em người Việt miền Trung và trẻ em người Chăm.
Về vần điệu có
thể nhìn thấy các em bỏ vần lưng, cho dễ đọc, dễ nhớ. Ví dụ bài đồng dao trẻ em
Chăm:
-(Akauk hagait hư
lavang? Hadang o dong
Hadang hagait o
dong? Harơk ralo
Harơk hagait hư ralo?
Kbaw o talaih)
Cò ơi sao mày ốm nhom? Do tôm không nổi
Tôm ơi sao mày không
nổi? Bởi cỏ quá nhiều
Cỏ ơi sao lại mọc nhiều?
Trâu chẳng chịu ăn
Trâu ơi sao chẳng chịu ăn? Thằng cọc không mở
(...)
Hoặc
sự tương đồng về vần có thể gặp trong một số bài gieo vần lưng. Bài đồng dao
trẻ em Chăm:
Mưnuk
cei yơu
Katrơu
cei sa bai
Jah glai
pala ritak
Ritak
cei veivei.
Bài đồng dao trẻ em Việt:
-Trời
mưa lâm râm
Cây
trâm có trái
Con gái
có duyên
Đồng
tiền có lỗ
Bán
tổ thiệt ngon
Bán
bèo thiệt béo
Cái
kéo thợ may
Cái
cày làm ruộng
Cái
xuổng đắp bờ
Cái
lờ thả cá
Cái
ná bắn chim
Cây
kim may áo
Cái
giáo đi săn
Cái
khăn bịt đầu
Cái
cầu đi chợ
Có
vợ đàn ông
Có
chồng con gái
Có
trái mù u
Có
khu bà già [[10]]
Có
cha con nít.
Kiểu vần này tạo
thành nhịp đôi cho cả bài đồng dao, tương thích với trò chơi có bước đi của trẻ
em, hoặc có thể huơ tay lên làm dấu hiệu biểu tượng, vừa hát đồng dao vừa nhảy,
vỗ tay làm cho cuộc chơi phối hợp bài bản, trò diễn, nhịp điệu thể hiện được
chức năng của đồng dao thêm sinh động, vui tươi theo kiểu vần chân.
Cim
cak cak
Padai
bak jak
Lac
bak lii
Hận klơm ni.
Đồng dao trẻ em
người Việt miền Trung và người Chăm thường thể hiện chức năng giúp các em nhận
biết sự vật và hiện tượng xảy ra trong tự nhiên, xã hội và cuộc sống chung
quanh. Nội dung giúp nhận biết thường đơn giản về một sự vật hoặc hiện tượng
nào đó, mối quan hệ với bạn bè, anh chị em trong gia đình và đôi khi quan hệ
với xã hội nhưng vẫn với tinh thần nhẹ nhàng, đơn giản phổ biến. Đây là nét
chung thường gặp trong đồng dao trẻ em người Việt - Chăm. Thí dụ nhận biết:
-Trời
mưa lâm râm
Cây
trâm có trái
Con gái
có duyên
Đồng
tiền có lỗ
Bán
tổ thiệt ngon
Bán
bèo thiệt béo
Cái
kéo thợ may
Cái
cày làm ruộng
Cái
xuổng đắp bờ
Cái
lờ thả cá
Cái
ná bắn chim (...)
hoặc bài đồng dao trẻ em Chăm, thể hiện sự nhận biết:
-Cim cauh ritaung
Cim jhaung
ikan
Cim rwak tian
Cim jauh angwa
Cang ai ka
Tamư sang swowr
Đa bhiw savah
Mưk ba pơr
Ngauk hala padai
Cim nau mai
Cim vaiy cabbwơc
Jalan
ia đwơc
(...)
Chim bói cá
Ăn cá
lòng tong
Chim đi sông
Chim duỗi cẳng
Vô nhà táng [[11]]
Rời tổ lìa cành
Nhớ chờ anh
E lũ ó
Thộp cổ mang đi
Trên cánh đồng
Chim qua lại
Méo mỏ chim
(...)
- Công bằng làng Chung Mỹ
Rành lệ làng Bàu Trúc
Hữu Đức
hay thơ văn
Khó khăn
làng Vụ Bổn
Chộn rộn
xứ Văn Lâm
Ngang tàng làng Phất Thế
Khốn khó vùng Labơk
Vô lo dân Hiếu Thiện
Lắm chuyện
người Nghĩa Lập
Đỗ dồn dập
về Thành Tín
Thâu gọn ở Caklaing.[[12]]
Trên, chính là
tạo diều kiện cho trẻ em nhận biết những đặc điểm tự nhiên, loài vật, xã hội
con người và nhận biết các phong tục, tập quán liên quan đến đời sống người
dân. VVH./.
[1] Đồng dao với cuộc sống dân tộc Thái ở Tây
Bắc, Tô Ngọc Thanh, Tạp chí Văn học, số 4/1974.
[2] Văn học Chăm, Inrasara, Nxb. Văn hóa dân
tộc, 12/2004.
[3] Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên),
Nxb Đà Nẵng & Trung tâm từ điển học, in lần thứ 12, tr. 342, 2006.
[5] Đồng dao người Việt (sưu tầm, tuyển chọn,
bình giải), Hội Vă n
nghệ dân gian Việt Nam ,
Triều Nguyên, Nxb.Lao Động, 2011.
[6] Jăpwai:
tên riêng, Ja được đặt trước tên con trai cũng như Mư được đặt trước tên con gái.
Dẫn Theo Inrasara trong Văn học Chăm.
[7] Dơm
Sơng: tên nhân vật trong truyền thuyết Chăm, như Đam San của đồng bào Tây nguyên.
Dẫn Theo Inrasara trong Văn học Chăm,
Nxb. VHDT. 12/2004.
[8] Đồng dao
được đọc cùng với trò chơi Đàn dê lên
rừng.
[9] Đồng dao
được chuyển thành trò chơi Rồng rắn lên
cây.
[10] Khu:
(phương ngữ xứ Quảng) là cái đít.
[11]
sang swơc: nhà táng đem đốt với thi hài trong ngày đám tang của người Chăm
Balamôn.
[12] Là làng Mỹ Nghiệp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét