Trong quá trình tham gia biên soạn bộ Tổng tập Văn hóa, văn nghệ dân gian đất
Quảng (05 tập) có độ dày 3.000 trang, là thời gian, điều kiện và dịp tôi
được đi (điền dã), đọc để tra cứu và ghi chép tư liệu. Càng đọc, tìm hiểu, càng
thú vị đến kinh ngạc về xứ sở mình. Chỉ một mảng, lĩnh vực ngành nghề thủ công thôi, Quảng Nam Đà Nẵng đã cuốn hút, hình thành
một lực lượng làm nghề, trong đó, nhiều nghệ nhân lừng danh làm ra các sản
phẩm, vật phẩm tinh xảo bằng bàn tay và khối óc dân gian, dân giả lao động để
kiếm sống dưới sự cai trị của các triều đại phong kiến. Các sản phẩm "cây
nhà lá vườn" là nguồn tài nguyên, nguyên
liệu của đất Quảng đã thu hút người tiêu dùng trong và ngoài nước yêu
chuộng tìm đến trao đổi, mua bán.
Điều đặc biệt, các đời vua chúa lại để mắt, phát
hiện, quan tâm, sức dân, sử dụng tay nghề, khai thác không sót một ngành nghề
nào và đặt ra các đạo dụ, sắc luật, chỉ dụ, sắc phong, thưởng phạt bài bản, chi
tiết đến từng cây, con, mùa vụ, kỷ, mỹ thuật... mà sử sách ghi lại không thiếu
một nghề nào.
· Nghề dệt vải, đủi, lụa, lãnh, tuýt-xo..:
Quảng Nam, có nhiều thợ dệt tay nghề cao, có thể dệt ra nhiều loại vải tơ lụa
"đẹp và khéo không khác gì hàng của
tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc", người ta chỉ chọn mua ở hai phủ Thăng
Hoa và Điện Bàn.
Năm Minh Mạng
thứ 20 (1839), thợ dệt Quảng Nam được tuyển về kinh để dạy cho thợ ở kinh
đô nghề dệt vải cải hoa (vải lụa có hoa), được cấp cho nhiều lạng bạc nhằm khen
thưởng và khích lệ sự tận tâm truyền nghề của họ. Triều đình còn đem tơ sống ở
kho giao cho thợ Quảng Nam dệt ra trừu, lụa, trả công cho thợ mỗi tấm trừu (dài
18 thước ta) 1 quan 3 tiền; mỗi tấm lụa
(30 thước) 3 quan tiền. Theo "Đại
Nam thực lục chính biên", vào năm Tự
Đức thứ 18, một số thợ tay nghề cao ở Quảng Nam được rút khỏi các ngạch
lính, riêng thợ ở thôn Nam An, Đông Phú, Khương Đông, Phú Trường, Lộc Đông có
hàng trăm thợ sung vào các hộ dệt lụa, sa, trừu mỏng, trơn. Các hộ trưởng được
phong hàm cửu phẩm, các đinh trong hộ được miễn sai dịch.
· Từ trước đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (con chúa Nguyễn
Hoàng), ở hai phủ Điện Bàn, Thăng Hoa đã có nghề
tằm tơ. Đất Duy Xuyên bấy giờ là vùng trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa
nổi tiếng. Ở đây có dinh thờ Bà Chúa Tằm Tang, hàng năm có tế lễ trang trọng,
là từ câu chuyện có người con gái nhà họ Đoàn, nhân đêm trăng sáng đi hái dâu ở
bãi sông, ngắm trăng và hát: "Tai
nghe chúa ngự thuyền rồng / Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa!", đang
lúc chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (còn là Thế tử) trên đường tuần du Quảng Nam,
dong thuyền đi câu nghe được, tìm đến gặp nàng và sau đó đưa nàng về tiềm để
(nơi Thế tử ở), kết duyên, phong làm hoàng hậu. Bà là người đề xuất và chăm lo
nghề tằm tang ở xứ sở nầy cho đến cuối đời.
Dưới thời Minh
Mạng, nhà vua rất khuyến khích nghề tằm tang. Ngay trong công sảnh tỉnh
đường Quảng Nam có nhà nuôi tằm, kéo tơ do một vị quan phụ trách, có các tàm
phụ, tàm mẫu giúp việc. Minh Mạng năm thứ
14, quan tỉnh Quảng Nam là Đỗ Khắc Thư dâng 100 cân tơ lên vua. Vua khen
thưởng và bảo với các triều thần rằng: "Lệnh
cho các địa phương làm lễ chăn tằm. Các quan đầu tỉnh phải thân hành làm việc
hướng dẫn nhân dân. Quảng Nam thu được tơ nhiều như thế, thật là do quan tỉnh
gia công khuyến khích nhân dân thừa hành...".
· Có hai nghề khác
là thêu và nhuộm, thì ở Quảng Nam có
nhiều thợ khéo rất được trọng dụng. Theo "Hội sự điển lệ", hai người nổi tiếng về thêu được chọn mỗi
tháng một lần thay đổi nhau ra kinh đô Huế làm việc. Hằng năm triều đình tuyển
mộ hầu hết là thợ nhuộm và thêu từ đầu năm đến tháng 7 thì về.
· Nấu và chế biến đường, nhất là đường cát
lúc bấy giờ được làm nhiều ở huyện Lễ Dương (Thăng Bình), Hà Đông (Tam Kỳ) được
triều đình đặt mua hàng năm từ 20 đến 90 vạn cân. Còn mật thô (đường nước đổ
ghè) thì các năm Gia Long thứ 11, 12 mua
hàng vạn cân, Minh Mạng năm thứ 16,
mua trên năm ngàn cân. Minh Mạng đời thứ
6 đến đời thứ 9, chọn ba thợ giỏi nhất về kinh làm việc, cấp lương hàng
tháng 2 quan tiền, 1 phương gạo (khoảng 30 cân). Vua Tự Đức năm thứ 18,
lập thêm một hộ làm đường tại Quảng Nam
(50 người), mỗi người một năm đóng thuế 40 cân. Hộ trưởng được phong hàm
cửu phẩm.
Đường có nhiều loại, do nông dân trồng được nhiều mía
tốt, cất trại, xây lò, che ép mía do trâu, bò hoặc dùng sức người kéo. Từ đường
non được nấu trong chảo gang to, lọc kỷ rồi chế biến thành đường bát (có màu
đen, nâu), đường cát (vàng, hoặc trắng), đường phèn, đường phổi. Đường phổi tên
chữ là "phổ đăng" sản xuất ở Điện Bàn nhiều hơn.
· Nghề chạm khắc đá. Làng Quán Kháí (Ngũ
Hành Sơn, huyện Diên Phước), là nơi triều đình Huế qui định thành luật lệ: Con
trai khi đến 18, 19 tuổi phải đăng vào sổ thợ ở kinh đô, không được tự ý đi làm
việc ở nha môn khác, để khi cần tuyển mộ thì đáp ứng đủ.
Theo "Hội
điển sự lệ", Minh Mạng năm thứ
12 (1831) truyền lệnh cho Quảng Nam căn cứ các mẫu tượng các quan văn, võ,
lính thị vệ, voi, ngựa đá để chế tác đệ về kinh đem bày ở lăng Thiên Thụ, (tức
Lăng Gia Long). Chỉ có tay nghề thợ Quán Khái mới có khả năng chạm khắc được
các loại tượng bằng đá sa thạch, cẩm thạch ở Non Nước, Ngũ Hành Sơn, là loại đá
quý có nhiều màu sắc. Đá cẩm thạch làm hàng mỹ nghệ đa dạng như vòng đeo tay,
chuỗi cườm trang sức, chim, cá, cảnh, các loài thú lớn nhỏ, được các nước trong
khu vực ưa chuộng đặt mua quanh năm.
· Nghề còn tồn tại đến ngày nay ở Quảng Nam là nghề đúc đồng làng Phước Kiều, huyện
Diên Khánh (Điện Bàn). Đặc biệt các nghệ nhân có kỹ thuật đúc cồng chiêng thẩm
âm, đạt chuẩn âm thanh chính xác theo yêu cầu của bà con các dân tộc Tây Nguyên
cho cả một dàn chiêng vài chục chiếc. Ngoài ra còn có các nghề nấu, đúc các
loại đồ dùng bằng đồng, sắt, chì, kẽm, vàng, bạc nổi tiếng cả nước. Vua Thiệu Trị năm thứ 13 (1843) ban
lệnh: "Phàm thợ nấu kim khí Quảng Nam có người đi làm ăn xa đều phải rút
về nguyên quán để bổ vào ngạch thợ", khi ra kinh chia vào các ban làm
việc, mỗi tháng được phát 1 quan tiền và 1 phương gạo.
Tự Đức
năm thứ 20 (1867) cho lập thêm một
Sở đúc vàng tại Quảng Nam (chung cho các tỉnh Nam, Nghĩa, Bình, Phú) chọn một
thợ giỏi nhất cử làm Tượng mục, phong trật tòng cửu phẩm. Làng nào cũng có lò
rèn sản xuất các công cụ sản xuất cho người lao động nông tang và các ngành
nghề khác. Ở các chợ lớn, thị trấn thì có người làm nghề chế tác vàng, bạc.
Nguồn Chiên Đàn, Thu Bồn có thợ làm nghề đào đãi vàng... Ở Bồng Miêu (Bông
Miêu) có mỏ vàng được phát hiện và khai thác mạnh nhất vào thời Pháp thuộc.
· Cũng theo "Hội điển sự lệ", nghề
mộc (đồ gỗ) ở Quảng Nam vừa khéo, vừa tinh xảo, nhiều thợ giỏi, đặc biệt là
thợ mộc làng Kim Bồng, huyện Diên Phước. Các tốp thợ làm nghề riêng lẽ tại gia
đình, nhưng thường được gọi về kinh đô để phục dịch. Trong thời gian tiến hành
xây dựng kinh thành Huế, rồi trùng tu, xây dựng lăng miếu, cung điện, vua Gia
Long cho điều hàng trăm thợ làng Kim Bồng ra làm việc suốt nhiều năm. Các đời
vua sau, cùng phủ đệ của vương công, quận chúa thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn cũng
tiếp tục chọn thợ Quảng Nam.
Thiệu
Trị năm thứ 3 (1843) lập Cục thợ mộc thuộc Sở kho gỗ ở kinh đô,
định ngạch 471 thợ lành nghề đều lấy người Quảng Nam. Riêng phố cổ Hội An (có
300 năm từ ngày ra đời, 1553, Ô châu cận
lục của Dương Văn An ghi là làng Hoài Phố, Cẩm Phô), toàn bộ các ngôi nhà
cổ đều do các tay thợ Kim Bồng và một số nơi khác ở Quảng Nam xây dựng.
· Ở làng Thanh Hà
(Hội An, Quảng Nam), có nghề làm đồ gốm nổi
tiếng. Đất làm gốm lấy ngay ở quê, than nung lò nhận từ nguồn Thu Bồn xuống.
Toàn bộ các khâu làm ra sản phẩm đều bằng tay và thẩm mỹ là tự nghĩ ra hình
dáng, góc cạnh với một màu đất nung đậm nhạt tùy loại.
Dưới thời Minh
Mạng, triều đình đã cử quan vào đặt mua các mặt hàng như bát (chén) ăn cơm
kiểu chữ Phước, Lộc, Thọ, kiểu Trúc Điểu (cành trúc và chim), kiểu Long Ẩn
(rồng ẩn trong mây); các bộ đồ uống trà kiểu Phước, Lộc, Thọ, Ngư tiều (câu cá,
đốn gỗ), kiểu Sơn Điển Thính (chim nhí nghe đàn); các loại đôn sứ, chậu hoa,
siêu đất, hoa văn... Thời Tự Đức, có
thợ gốm Võ Văn Ba, người làng Thanh Hà, từng được gọi ra Huế phục dịch ở lò gốm
Long Thọ, cử làm hướng dẫn kỹ thuật.
Từ đời Gia Long
năm thứ 6 (1807) khi bắt đầu xây dựng Kinh
thành Huế, đã lập ở kinh đô hai Sở
ngói, lấy 600 thợ Quảng Nam ra làm việc. Theo "Đại Nam thực lục", đời
Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), lập lệ chọn thợ nung ngói, xây gạch và thợ lợp
nhà cũng chọn thợ giỏi Quảng Nam.
· Nghề dệt chiếu lác (cói). Trong "Phủ biên tạp lục" có ghi: Ở làng
Hoa Sơn, huyện Tân Phước (tên huyện thời Lê - Trịnh ở phủ Điện Bàn, nay là thôn
Yến Nê, huyện Hòa Vang và làng Bàn Thạch (Duy Xuyên), có nghề dệt chiếu đẹp và
tốt nhất. Các hộ dân làm chiếu phải nạp chiếu thay cho thuế thân và được miễn
lao dịch.
Hàng năm, vào dịp Tết Nguyên Đán, Quảng Nam phải thu
nộp 35 đôi chiếu lác mềm, 4 đôi chiếu mềm khổ nhỏ, 8 đôi chiếu cù du (thảm
lông), 1 đôi chiếu sạp dài, 4 đôi chiếu sạp ngắn, 1 đôi chiếu bạch liên (lác
trắng) để bài trí tại văn miếu, 1 đôi chiếu cù du (thảm lông) cạp lụa huyền,
tổng cộng 50 đôi. Còn phải nộp 75 đôi chiếu trắng khác cho công đường các phủ,
cùng chùa miếu ở các địa phương. Riêng chiếu hoa (gồm các chữ Phước, Lộc, Thọ;
Điểu, Mai, Cúc, Trúc; Rồng, Cá....) cũng bằng cây đay, lác nhuộm dệt thành,
hoặc in nhiều màu các hình mẫu nói trên. Loại chiếu Hoa Đằng (mây hoa và Giai
văn trắng, nhẹ, mềm) theo lệ định chiều dài 5 thước, 4 tấc (thước ta), chiều
ngang 4 thước để trải nền nhà, lối đi sân chầu tại cung đình trong các dịp lễ
trọng.
*
*
*
Như từ đầu của trang tư liệu sao lục nầy, tôi đã viết:
Càng đọc để hiểu biết chút ít, hay một phần rất nhỏ về Xứ Quảng mình. Phần nhỏ
ấy là "Ngành nghề Quảng Nam" có
liên quan đến các triều đại vua chúa phong kiến, nhất là các đời vua Nguyễn. Tôi
vừa tự hào, sung sướng vừa cũng ngạc nhiên, ngỡ ngàng về vùng đất của các thế
hệ cộng đồng cư dân xứ Quảng. Cái vùng đất xứ Đàng Trong, từ thuở khai thiên
lập địa, nơi đầu sóng ngọn gió đến "con chim kêu cũng sợ/ con cá vùng cũng
kinh", mà lại có những con người tài hoa xuất chúng ở mọi ngành nghề dân dã.
Cái sức sáng tạo phi thường đó, sự lao động không mệt mỏi đó đã tác động trực
tiếp và hé mở bao tiềm năng về sức người, về tinh hoa, tiềm năng, về của cải
đến các triều đình vua chúa đã cuốn hút những "cái đầu" nắm quyền cai
trị người dân, vừa khai thác, bòn rút nguồn tài nguyên thiên nhiên, sản vật quí
hiếm và sản phẩm hoàn hảo về kinh, làm giàu cho cả dòng họ thế tộc, quan gia
của họ, vừa quảng bá, rao bán và quản lý người và của một cách tinh vi.
Nhưng cũng may, có những vị vua vì biết được giá trị
của nghệ nhân, của tay nghề hiếm ở đâu có được như ở Quảng Nam, đã gia công
tính toán, đề ra luật lệ, trả công, ban thưởng và cũng có phần nễ trọng tài
năng mà chú ý xây dựng, đắp bồi cho vùng đất nầy để phát triển, gìn giữ, lưu
truyền; kể cả gìn giữ các ngành nghề truyền thống thuần Việt ấy ở kinh đô xa
hoa, tráng lệ lúc bấy giờ.
Lần theo từng trang sự kiện, chỉ một lĩnh vực "nghề" trong một vài bộ sách xưa, sách cổ đã được
dịch in lưu hành như: Đại Nam thực lục
chính biên, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Việt sử thông giám cương mục, Phủ
biên tạp lục, Ô châu cận lục, Minh Mạng chính yếu... Đặc biệt, sách QN-ĐN qua các triều đại phong kiến của
Nguyễn Minh Triều (Tôn Thất Trân) và nhiều tư liệu khác. Đây quả thật là điều
may mắn cho chúng ta ngày nay. Nếu không thì căn cứ vào đâu, lấy đâu "mà
nói có sách, mách có chứng" về Quảng Nam chúng ta trong tất cả các lĩnh
vực địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, có trên 500 năm
qua, được sử sách ghi lại.
Đọc lại một đôi câu chuyện xưa (chưa đầy đủ tình tiết,
chương mục), nhưng cũng là điều thú vị và có ích. Biết đâu, chuyện xưa, có cái
ngày nay còn phải nghiên cứu, học hỏi và làm. Phải chăng?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét