Bữa nay lên Kinh Bắc
Thả
câu hò khoan giữa trời quan họ
Buâng
khuâng liền chị liền em
Ngược
xuôi lưu luyến chưa về.
Cái đêm Kinh Bắc là đêm nhớ mãi. Trong
khuôn viên quan họ Phú Sơn, một đội dân ca quan họ Bắc Ninh trình diễn một
chương trình với những làn điệu dân ca quan họ mượt mà, nghe mà thấy hình ảnh
những cánh cò trên đồng ruộng châu thổ sông Hồng mới thật là thú vị sao! Rất
nhiều người yên lặng lắng nghe và cảm nhận tình cảm được thả trong những câu ca
quan họ. Đêm quan họ tại Phú Sơn, gặp một “liền chị” có tên là Toàn Thắng -
nghệ nhân quan họ nổi tiếng Kinh Bắc -
để biết thêm về các liền chị khi diễn xướng.
Làng quan họ Viêm Xá (Diềm Xá) thuộc xã
Hoà Long, huyện Yên Phong, Bắc Ninh. Tư liệu cho biết rằng làng có con sông Ngũ
Huyện chảy vòng như dải lụa rồi nhập với con sông Cầu soi bóng núi Kim Sơn. Thế
nên trong câu ca phản ánh rằng có con
sông Cầu nước xanh trong vắt là thế. Ai cắm xuống đây một hòn núi mà núi
mọc ngay đầu làng tạo nên thế đất sơn thuỷ hữu tình. Làng Viêm Xá là làng quan họ
gốc xưa nay, thuỷ tổ của làn điệu dân ca trữ tình ấy là đức vua Bà hiện đang
được nhân dân thờ phụng tại ngôi đền ngay trên đất Viêm Xá nầy. Về khảo cổ học,
các nhà khoa học đã tìm thấy được những di chỉ quý giá như rìu xén tinh xảo,
lưỡi dao găm sắc ngọt, đốc cầm bình củ cầu kỳ, chuỗi hạt ngọc lưu ly huyền ảo.
Tại núi Quả Cảm còn tìm thấy các đồ dùng sinh hoạt của con người thời xưa như
bát ăn, những khuyên tai màu xanh ngà, những chuỗi lưu ly màu xanh ngọc đã
chứng tỏ tài thủ công và trình độ sống một thời của các cư dân ở đây. Từ những
dấu tích và huyền thoại, các nhà khoa học đã khẳng định nơi đây quần thể di
tích có hệ thống khá dày đặc. Các di chỉ do kết quả khảo cổ đem lại càng khẳng
định độ tuổi đến 2000 năm của làng Viêm Xá cổ kính. Nổi bật là khu đền Cùng
(gồm điện thờ và Giếng Tiên) nằm ngay đầu làng dưới chân núi Kim Sơn, di tích
đình làng Viêm Xá nằm ngay ở phía trước của làng, trong đình có câu đối: “Thần
linh dựng nên làng Diềm, trải qua các thời đại đều phong tặng ngang trời đất”.
Phía trước là hồ nước nay được xây kè, cống được dùng làm nơi tổ chức bơi
thuyền hát quan họ ngày hội. Di tích vua Bà nằm cách di tích vài trăm mét tuy
không phải là kiến trúc đồ sộ nhưng lại là trung tâm của sự sùng kính, trân
trọng không chỉ của nhân dân Viêm Xá mà cả vùng quan họ. Đền vua Bà là kiến
trúc cổ thời Lê có trang trí kiến trúc đắp nổi và chạm khắc đơn giản, song lưu
giữ nhiều hiện vật quý như tượng vua Bà, bài vị sắc phong, hoành phi câu đối,
đồ tế khí vẫn còn khá đủ.
Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 12 âm lịch là
ngày dân truyền rằng vua Bà giáng xuống làng Viêm Xá, dân làng mở hội để tưởng
niệm vị Thánh mẫu, mời bạn quan họ của làng về đây ca hát, đối đáp mở nhiều trò
vui truyền thống trong đó đặc biệt có trò vui cướp cầu vốn tồn tại như một nghi
lễ tín ngưỡng có liên quan trực tiếp tới sự may rủi của dân làng trong một năm
sinh sống, làm ăn. Khách thập phương đến đây đều có thể cảm nhận không khí linh
thiêng, huyền thoại cổ xưa chen lẫn sự mộc mạc êm đềm, rất giàu tình cảm của
những áng thư quan họ vùng Kinh Bắc. Hiếm có làng quan họ nào trong 49 làng
quan họ trong vùng lại có tới 4 hội làng như làng Viêm Xá mà đặc biệt là hội
vua Bà thu hút đông đảo nhất và dài ngày nhất. Trong lễ hội, ngoài phần nghi
lễ, chủ yếu là hát quan họ với các hình thức ca hát bài bản, lề lối nhất và vai
trò của các nghệ nhân quan họ cũng chiếm phần đáng kể trong hát thời, hát cầu
đảo. Và có lẽ vì không khí quan họ thiêng liêng như vậy mà mặc dù không có
những thuận lợi về giao thông, địa thế như Hội Lim nhưng hội hát quan họ Viêm
Xá hàng năm vẫn duy trì sức thu hút tự nhiên đối với phần lớn các làng quan họ
trong vùng đến vui hát, thi hát như một nhu cầu tự thân đầy hứng khởi. Viêm Xá
là chiếc nôi của quan họ, bao nắng, bao mưa, làng vẫn cố công giữ ngôi đền Bà
chúa quan họ.
Chuyện kể rằng: cô gái làng đẹp người, đẹp nết đảm đang nghề
canh cửi tên là Nữ Nương, một bữa ra ruộng hái dâu, gặp vua vi hành về chốn dân
dã. Cô gái lấp ló trong bờ dâu, trên trời có đám mây vàng kết tụ, hát ghẹo: Tay cầm bán nguyệt xênh xang/ Bao nhiêu thảo
mộc lại hàng chị đây.
Vua vì say câu
hát của cô gái đẹp nết, đẹp người thương mến mời vào cung. Nhân dân trong làng
tưởng nhớ người con gái đức hạnh có tài ca hát đã rủ nhau học thuộc những bài
ca của Bà và sau này chính những bài bản ấy là dân ca quan họ. Những bài hát mà
Bà sáng tác khi ca lên không chỉ làm say mê lòng người, giúp trai gái yêu
thương nhau mà còn làm cho mùa màng tốt tươi, cây cối đơm hoa kết trái. Ở làng
Viêm Xá còn giữ được những bài bản cổ trong mỗi nhà, trong nhiều nghệ nhân mà nghệ
nhân Nguyễn Công Luật là một thí dụ. Làng Viêm Xá còn là trung tâm của hội hát
quan họ Bắc Ninh. Làng đã làm tất cả những gì làm được để giữ lại, bảo tồn và
phát triển di sản quý báu đã trở thành tài sản chung của dân tộc.
Đến Kinh Bắc, nhớ
Hoàng Cầm với “Bên kia sông Đuống” và
“Tiếng hát quan họ” của ông. Kinh Bắc là nơi chôn nhau cắt rốn của Hoàng
Cầm, mà đặc biệt là tại một làng quan họ mới thú vị sao! Chính đó, mà trong thơ
ông đã giữ được các làn điệu dân ca cùng những lễ tiết cho một quan họ, hội hè,
đình đám một vùng quê đậm đà vị sắc dân gian, một thời quan họ bay lên dốc, xin chớ dìu nhau xuống vực sâu. Hôm
chúng tôi nghe quan họ tại Phú Sơn, trong men rượu cay nồng lại nhớ mấy câu
quan họ mở đầu của Hoàng Cầm: Mẹ kể
chuyện ngày xưa xa lắm/ Tháng tám ao hồ mát lặng/ Làng quê còn níu lại hương
sen/ Hai mươi gái trai/ Thả một con thuyền/ Sóng mười đôi/ Mắt nhìn trong mắt/
Nón nghiêng tăm tắp/ Ngày mai ai chắc được gần ai.
Tại chùa Dâu. Hôm chúng tôi đến, mặt trời
thả xuống những tia nắng hanh vàng khó chịu và ngột ngạt, hơi nắng bốc lên ngùn
ngụt như có khói. Trên con đường nhỏ dẫn vào chùa người dân phơi rơm rạ chật cả
lối đi - người dân quê mình vẫn vậy trong sản xuất nông nghiệp vì thiếu sân
phơi - Mùi rạ xông lên và trên sân chùa ngay trước nhà trai người ta phơi cả
một sân lúa, tràn lên bìa sân, đang ưỡn mình phơi dưới nắng hè oi bức.
Trụ trì chùa Dâu là một sư nữ, cho chúng
tôi biết về ngôi chùa nầy: chùa Dâu còn có tên là chùa Diên Ứng, toạ lạc tại
làng Dâu, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh bắc Ninh.
Đây là ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam
được khởi công xây dựng vào đầu thế kỷ thứ III sau công nguyên. Hôm chúng tôi
đến, chùa đang trong thời kỳ phục chế toàn diện. Trên sân, trước lối đi vào
chùa những cây gỗ lim to tướng nằm dài gác thân lên nhau chuẩn bị xẻ dọc,
cưa ngang tham gia trùng tu lại chùa. Từ
những thế kỷ đầu công nguyên, chùa Dâu đã là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng
trong nước và ngoài nước. Từ cuối thế kỷ thứ IV, Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi đã
mở đạo tràng, thuyết pháp tại chùa lập nên thiền phái đầu tiên ở Việt Nam. Chùa
được ông Mạc Đĩnh Chi đứng ra dựng lại với quy mô lớn vào thế kỷ thứ XIV, và
trùng tu nhiều lần ở các thế kỷ sau. Hiện nay tại sân chùa có tháp Hoà Phong 3
tầng cao 17 mét. Trong tháp có treo một chuông lớn đúc từ thời Cảnh Thịnh
(1793), một khánh lớn bằng đồng đúc năm Minh Mạng thứ 18. lại còn có tượng Bà
Pháp Vân, tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ
![]() |
|||
![]() |
|||
Tiên Đồng (Ảnh: VVH, 6/2006) Ngọc Nữ (Ảnh: VVH 6/2006)
Ca dao kinh Bắc
nhắc nhau: Dù ai đi đâu về đâu/ Hễ trông
thấy tháp chùa Dâu thì về.
Chùa Dâu là nơi
ta có thể tìm hiểu và gặp lại câu chuyện Quan Âm Thị Kính. Chuyện ra đời từ
chùa Dâu, nay còn tượng thờ phía sau gian chính. Ngày xưa, con gái xuống tóc
vào chùa tu hành là không thể được, thế nên Thị Kính phải giả làm trai để được
vào chùa kinh kệ sớm hôm. Nơi các chú tiểu ở cũng được bố trí riêng nên chuyện
phát hiện gái giả trai để tu hành không làm bận lòng các sư trụ trì là mấy.
Chính đó mà Thị Kính có thể vượt qua. Thế nhưng cho đến một ngày người ta đem
con trẻ đến chùa và rằng gán cho Thị Kính tội lấy gái (bởi Thị Kính đẹp) đến
phải có con. Thị Kính phải nuôi lấy trẻ như một sự công bằng theo luật nhân quả
phải có trước Phật tổ. Chuyện từ đó làm những nhà tu hành trong chùa phẩn nộ,
rằng đường trần Thị Kính chưa dứt được, không thể tu hành thành đạo. Thị Kính
vẫn lặng thinh chấp nhận và xem đấy như một lỗi lầm. Cho đến một hôm các vị sư
trong chùa phát hiện ra rằng Thị Kính là gái giả trai chứ nào phải là trai mà không
thể dứt nợ tình, khi đã minh oan được cho Thị Kính cũng là lúc Thị Kính vì đau
buồn không thể sống được nữa, đã thăng hoa về cõi Niết Bàn và đã thành chính
quả. Quan Âm Thị Kính từ đó mà có!
Chuyện về một
người con gái đi tu mắc oan nghiệp được chuyển thể thành các loại hình nghệ
thuật. Trong Nam chuyển thành loại hình cải lương, miền Trung chuyển thành
tuồng, ngoài Bắc chuyển thành kịch, chèo...diễn trên sân khấu cho người đời
biết được một câu chuyện thương tâm đã xảy ra nơi chốn Phật đài.
Gần 2000 năm biến dịch với bao đổi thay,
tu tạo, có lẽ bây giờ cảnh quan chùa Dâu đã khác xưa nhiều. Nghe nói, trước đây
con đường vào chùa đẹp lắm. Qua tam quan đồ sộ và bãi đất rộng nằm giữa hai dãy
ao dài in bóng chiếc cầu chín nhịp có mái lợp, kiểu nhà cầu cổ ta còn thấy ở
Hội An và Huế, và một số nơi khác, khách bộ hành qua cầu vào dâng hương lễ
Phật. Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt, chùa Dâu được xây cất theo kiểu
nội công ngoại quốc, một kiểu kiến trúc Á đông truyền thống. Bốn dãy nhà liên
thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi chính: Tiền đường, Thiện hương và Thượng
điện. Hậu đường xưa nay không còn nữa, nhưng khách thăm chùa vẫn còn được chứng
kiến bốn mươi tể gian nhà oản hai bên tả hữu. Hôm chúng tôi đến dạo quanh các
căn nhà oản, quả là rất rộng, các gian oản trống trơn vừa được phục chế, xem đó
ngày trước đây vẫn là nơi dừng chân nghỉ lại của các khách thập phương đến lễ
chùa Dâu. Các gian phục chế lại đều thấp, toàn là gỗ lim chắc không tưởng được.
Giữa sân chùa là cây tháp Hoà Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn, được nung
thủ công chín đến độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã làm xoá mòn đi
sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới nhưng vẫn uy nghi, vững chãi
thế đứng ngàn năm. Dấu vết xưa nhất còn lại của ngôi chùa được các nhà khảo cổ
học xác định là từ đời nhà Trần. Đợt tu bổ lớn nhất vào năm 1313 dưới triều vua
Trần Anh Tông. Chúng tôi dạo quanh chùa mới cảm nhận được hết vẻ hằn sâu của
thời gian, đặc biệt là những tượng Phật bằng gỗ - ngày xưa ấy chỉ chạm trổ toàn
bằng gỗ, làm gì có đất nung và ximent, hoặc làm gì thời buổi cách đây những
2000 năm mà có thạch cao để làm tượng - Những tượng Phật bằng gỗ, trầm mặc lâu
đến nỗi chỉ cần nhìn vào là có thể ức đoán được lớp bụi thời gian phủ lên trên
tượng. Những tượng Phật không tròn to, vạm vỡ như những tượng Phật ngày nay.
Phải chăng dưới cái nhìn thời ấy, các vị Phật vẫn bình thường như chúng sinh
bình thường lam lũ, vẫn má cóp, thân gầy! - Theo nghiên cứu sử học, chùa Dâu có
nhiều tên gọi: Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự... có thể ra
đời đồng thời với truyền thuyết Man Nương, một trong những mã khoá mở vào tầng
sâu của văn hoá Kinh Bắc. Vậy nên, hợp với chùa tổ Man Nương là cả một quần thể
những chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn thờ tứ pháp là Pháp Vân, Pháp Vũ,
pháp Lôi, Pháp Điện, là nơi giao lưu của hai nền văn hoá Phật giáo, một từ Ấn Độ sang, một từ phương Bắc
xuống, nơi đây từng là nơi “kinh đô”của Phật giáo Việt Nam hơn 10 thể kỷ đầu.
Tại “kinh đô” này đã có nhiều nhà sư nổi tiếng, với hội tắm Phật mùng 8 tháng
tễ hàng năm: Dân gian thường nhắc: Dù ai buôn bán trăm bề/ Nhớ ngày mùng tám
thì về hội Dâu.
Càng nhìn ngắm kỹ các tượng Phật trong
chùa mới thấy hết giá trị của chùa Dâu, một trong những ấn tượng khó có thể
quên được sau khi thăm viếng cảnh
chùa ấy là những pho tượng thờ. Có thể nhìn tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc
màu đồng hun. Gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi sự liên tưởng tới
những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc, nơi cội nguồn của tễ tưởng thiện
căn, của đức từ bi hỉ xả. Tượng Pháp Vũ với những nét đã được Việt hoá, đức độ,
cao cả. Đặc biệt hai pho tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ đặt hai bên điện thờ chính,
gợi nhớ tới những cô thôn nữ của miền quê quan họ nơi đây. Dáng người thắt đáy
lưng ong uyển chuyển, vành khăn quấn trên đầu bình dị và mềm mại, chiếc áo tứ
thân mớ ba, mớ bảy với dải lụa đào thướt tha làm tôn lên vẻ đẹp dịu dàng của
người thanh tân quan họ nơi Kinh Bắc. Cha ông ta xưa đã rất tinh tế, nhuần nhị
khi đặt tượng thờ Kim Đồng, Ngọc Nữ. Về đây ta gặp sự giao hoà đẹp đẽ giữa tễ
tưởng Phật giáo chính thống, một dạng thức văn hoá tinh thần ngoại nhập vào ta,
với tâm linh, tinh thần bình dân, thuần phác. Ta cũng lại thấy ở đây một minh
chứng rõ nét cho quá trình tiếp biến văn hoá, sự Việt hoá những giá trị tinh
thần khi hội nhập. Về chùa Dâu, về Thuận Thành ta như được tắm mình trong không
khí cổ xưa qua dấu ấn của nhiều tầng bậc văn hoá - lịch sử. Nơi đây, đô thành
Luy Lâu xưa bên dòng sông Thiên Đức làm ta gợi nhớ thời oanh liệt của Hai Bà
Trưng khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Đông Hán năm 43 sau công nguyên. Còn
đây, dòng sông Dâu đã đi vào thơ Tố Hữu: Con
sông Dâu chảy về đâu/ Mà lơ thơ đến Luy Lâu lại dừng.
Còn đây nữa là
miền đất trù phú Keo - Dâu với câu chuyện cổ tích về cô thôn nữ hái dâu, nết na
xinh đẹp đã trở thành Nhiếp chính Ỷ Lan tài gỏi, quán xuyến việc nước giúp vua
đánh giặc ngoại xâm. Sư nữ gợi chuyện làm tôi nhớ về người con gái họ Đoàn ở
Quảng Nam cũng hái dâu, cũng nết na xinh đẹp và đã trở thành Hiếu Chiêu Hoàng
Hậu - vợ Nguyễn Phúc Lan - đã giúp cho nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa
trên đất Duy Trinh của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam phát triển và nhờ đó mà
thương nhân Âu Châu, Trung Quốc biết đến xứ sở Đàng Trong với sản phẩm lụa là
nổi tiếng. Chuyện dân gian kể rằng: từ
thủ phủ Điện Bàn thuyền rồng Nguyễn Phúc Lan tuần du cùng cha trên dòng sông
Thu Bồn vào một đêm trăng sáng, bỗng vọng
lại từ đâu trong gió lời ca của cô thôn nữ hái dâu. Lời rằng: Thuyền rồng chúa
ngự nơi đâu/ Cảm thương phận thiếp hái dâu một mình. Chúa Nguyễn Phúc Lan nghe
được, đem lòng yêu mến cô gái họ Đoàn hát hay làm giỏi. Tiệc cưới của họ được
tổ chức. Về sau, cô gái họ Đoàn trên đất Thanh Chiêm được phong là Hiếu Chiêu
Hoàng hậu. Và, cũng từ đấy - thế kỷ thứ XVII - một thương cảng Hội An từng
bước ra đời và phát triển phồn thịnh. Mãi đến ngày nay người ta còn tìm nhiều
phương pháp để tìm hiểu lại thời vàng son ấy của phố Hội trên đất Quảng Nam.
Lịch sử đôi khi giống nhau vài sự kiện tiêu biểu, như là cô gái hái dâu ngày
xưa và cô gái hái dâu thời chúa Nguyễn đã làm ta thức tĩnh !
Và
đây, chùa Tháp Bút, nơi có tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng mà thời còn cắp
vở đến trường phổ thông tôi đã nhiều lần thấy in hình Tháp Bút trên sách và
tượng Phật mới linh thiêng làm sao ! Không thể nghĩ rằng có một ngày lại đến
được nơi này, đứng bên tượng chiêm ngưỡng và tôn kính như buổi sáng nay trong
cái nắng hanh vàng của xứ Kinh Bắc. Hoàng Cầm viết trong Bên kia sông Đuống: Ai về bên
kia sông Đuống/ Cho ta gởi tấm the đen/ Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên/ Những hội hè đình đám/ Trên
núi Thiên Thai/ Trên chùa Bút Tháp/ Giữa huyện Lang Tài/ Chuông chùa văng vẳng
nay người ở đâu.
Là làng tranh Đông Hồ, nơi tâm hồn dân
gian dẫu hoàn cảnh nào vẫn luôn mỉm cười trên sắc giấy hoàng, giấy điệp. Làng
tranh có một không hai tại Việt Nam. Đôi khi ta cứ tưởng làng tranh Đông Hồ
phải là vùng nằm trong long Thăng Long - Hà Nội - nhưng đến đây mới ngộ ra rằng
làng tranh nổi tiếng Đông Hồ từ rất xưa đã là một làng quê dân dã tại Bắc Ninh.
Mới biết: Quê hương ta lúa nếp thơm nồng/
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp...Cạnh
đó là dòng sông Đuống “ngày xưa cát trắng
phẳng lỳ” giờ vẫn bình thản trôi đi như đã từng trôi qua những bến bờ lịch
sử.
Và, từ chùa Dâu, ta có thể
rẽ ngang thăm núi Thiên Thai hay về bên kia sông Đuống dâng hương các vị vua
thời Lý tại đền Đô. Sông Đuống nghe
quen và lại gợi nhớ đến Hoàng Cầm với thơ “Bên
kia sông Đuống”, nơi thi sỹ gởi gắm một mối tình, thiết tha và lãng mạn với
một cô thôn nữ - một liền chị - quan họ vang bóng một thời. Hoàng Cầm phải tìm cho
ra lá diêu bông thì đấy cũng là cơ hội cho một mối tình. Nhưng, nào đâu có lá
diêu bông để mà tìm ! Nên tình yêu dù thiết tha thế nào cũng không thể. Thì
đành vậy! Quan họ hát rằng: Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng/ Chị thẩn
thờ đi tìm/ Đồng chiều cuống rạ/ chị bảo/ -Đứa nào tìm được lá Diêu Bông/ Từ nay ta gọi
là chồng/ Hai ngày em tìm thấy lá/ chị chau mày/ -Đâu phải lá Diêu Bông!/ Mùa
đông sau em tìm thấy lá/ chị lắc đầu/ Trông nắng vãn bên sông/ Ngày cưới Chị/ Em
tìm thấy lá/ Chị cười, xe chỉ ấm trôn
kim/ Chị ba con/ Em tìm thấy lá/ Xoè tay phủ mặt chị không nhìn/ Từ thuở ấy/ Em
cầm chiếc lá/ Đi đầu non cuối bể/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu Bông hờ!...ới Diêu
Bông!...