Có một thể loại Vè
gọi là vè Các Lái. Đó là bài vè chứa
những kinh nghiệm đi biển lâu năm của những người lái ghe bầu chuyên chở hàng
hóa, các sản vật đi buôn bán tại các cửa biển ven biển nước ta, từ Bắc vào Nam
và ngược lại. Nội dung bài Vè chỉ rõ cho những người lái ghe bầu biết những nơi
cần đến, những nơi nguy hiểm, những nơi cần ghé vào lấy củi nước, nghỉ ngơi,
giải trí, trao đổi hàng hóa, ghé vào dân lễ vật cúng bái cầu an …, trong thời kỳ khoa học kỹ thuật về hải trình
chưa được phát triển. Có những bài vè kể ra (hay
hát ra), có những bài vè kể vào (hay hát vào) theo những nhật
trình đường biển nhất
định: Nhật trình từ Kinh đô Huế (cũ) vào tận trong Nam, tỉnh Hà Tiên xưa, tỉnh
Kiên Giang ngày nay và nhật trình từ Kinh đô Huế (cũ) ra tận phía Bắc đến tỉnh
Quảng Yên xưa, tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
Những bài vè Các Lái còn hàm
chứa phong phú tri thức văn hóa dân gian về nghề đi biển biển, kỹ thuật lèo lái
ghe thuyền … Những người lái ghe bầu từ Bắc vào Nam hay ngược lại, ai cũng
thuộc nằm lòng những bài vè Các Lái này. Vì đó là những kinh nghiệm xương máu
được đúc kết của những người đi trước “thành thạo” một cung đường, truyền cho
đời sau, để họ biết rõ đường đi, tránh những nguy nan, bất trắc, tạo nhiều
thuận lợi cho cuộc hành trình.
NHỮNG TRI THỨC CỦA
NGƯỜI ĐI BIỂN TRONG CÁC BÀI VÈ CÁC LÁI
1.Tri thức về tên gọi giúp các
lái nhận biết về các đơn vị hành chính tỉnh/thành, thôn xã ven biển nước ta mà
các lái cần nắm để biết mình đi từ đâu đến đâu. Ngoài ra, những bài vè các lái
cũng cung cấp cho các lái biết những tên của các cửa biển, tên đảo, tên hòn,
tên vịnh, tên mũi, tên gành, tên lạch, tên bãi, tên rạn, tên cồn, tên tấn thủ
đồn binh, tên núi, tên sông, tên đền, tên chùa, tên chợ … và rất nhiều tên khác nằm ven biển nước ta.
Các tên gọi này coi như những “mốc” giúp các lái biết mình đã đi đến địa điểm
nào trong cuộc hành trình: - Có những tên gọi các hòn được lồng ghép trong câu
ca dao để người lái ghe bầu dễ thuộc dễ nhớ, như các hòn trong quần thể đảo Cù
Lao Chàm ở Quảng Nam: Ra lao đón lụi thật dài/ Chờ mồ khô lá, xuống tai chực nồm. Đó là các hòn: Lao, Lụi, Dài, Mồ, Khô, Lá, Tai. - Có những tên gọi các vũng, hòn mang tên các loài thú, như vũng Trâu
Nằm (Khánh Hòa) hay các hòn, đảo ở vùng biển Nghệ An: Trâu nằm ngoài cửa chầu vào/Chó thì vác mỏ trên cao khéo là/Cáo thì rón
rén bắt gà/Một đàn thú vật xinh đà quá xinh… Ở cửa Lạch Trường Thanh Hóa có hòn đảo nhỏ mang tên là hòn Đầu
Bò, bài Vè đưa địa danh này bằng câu nói vui: “Vào Trường ta đậu mua Bò ăn chơi” để người đi biển dễ nhớ địa danh
này khi vào cửa Lạch Trường.
2. Tri thức về những nơi ghe bầu
sắp đến: Giúp các lái nhận biết ghe bầu của mình sắp đến tỉnh/thành nào, đến
Hòn nào, đảo, vịnh nào …căn cứ vào những dấu hiệu, cột mốc gì để nhận biết: -
Lấy đèo làm mốc : – Ngoài cửa Chuồng mũi Đao là đó/Kìa đèo Ngang
nọ nọ trông lên - … đã gần với Cù Mông là cửa/Hai mũi đều chờn chở gie
ra/Trên mũi Móm dưới mũi Rà/Qua hai mũi ấy vũng La đã gần. - Lấy hòn núi đặc biệt nào đó
làm mốc, - Ngó lên núi Ải rất
cao/Ta sẽ lần vào Hố Chuối, Hang Dơi.
- Vác mặt xem thấy Bàn Than / Ngoài thời lao Ré (đảo Lý Sơn) nằm ngang Sa Kỳ. - Lấy một sản vật nào đó đặc biệt ở địa phương để làm mốc, như rừng dừa
Tam Quan, Bình Định: Vát ra khỏi mũi Sa
Hoàng (Sa Huỳnh-
Quảng Ngãi)/ Kìa kìa ngó thấy Tam
Quan (Bình Định)
nhiều dừa. - Cây kè, cửa Việt càng cao/Viễn
vông cứ đó ra vào làm tiêu.. – Còn ghe bầu vào
cảng Hải Phòng: Phía đông hải cảng chăm
nhìn phao tiêu/ Phao không số bắt đầu cửa Lạch/Một, hai, ba hướng vạch phân
luồng/Xanh sâu, đỏ cạn chỉ đường/Chạy luồng Nam Triệu thẳng luôn Hải Phòng …(Ghe bầu trước khi vào cảng Hải Phòng, phải chăm nhìn phao tiêu.
Phao tiêu có đánh số, “số không” là bắt đầu cửa Lạch, “số một, hai, ba” là hướng vạch phân luồng cho ghe thuyền khỏi chen nhau, khỏi lệch
hướng. Phao tiêu cũng có sơn màu để chỉ độ sâu, độ cạn: Màu xanh báo cho biết lạch sâu, màu đỏ báo cho biết lạch cạn.
Và ghe bầu chạy theo luồng Nam Triệu để thẳng luôn Hải Phòng. Luồng Nam Triệu là luồng nước di chuyển một
chiều, luồng hàng hải của Thành phố Hải Phòng). - Ngoài ra: + Lấy mắt mà trông:
- Gió tây ba cánh chan hòa/Ngó ra mù tít
la đà hòn Ông. - Ngó lên Hòn Mắt
thẳng dăng …- Ngó vô cửa Khẩu thêm vui… - Kìa kìa lại
thấy Ma Liên,
Chớp Chài. – Chụt Đèn đèn ngó xuống chỉnh ghê/Ngó về Hòn Tý, dựa kề Cam Linh. - Đứng xa ngó dặm trông chừng/Phố Giày, Phan Thít đã gần Trạm Lung.
- … ở ngoài bãi Sách trông lên/Mà trông
Bang Trí buồm tiên qua rồi. - Trông
ra hòn Lạn, hòn Nhồi/Thuyền bè san sát nhiều người mại thương. + Vị trí các
Hòn: Ngoài Hòn La trong thì Hòn Cỏ. -
La ngoài, Cỏ giữa hai bên/Mũi Ông trong
bãi đất liền bò ra … - Dưới thì vũng
Áng, ở trên Dinh Cầu. - Láp, Nồm kề
cuối hòn Ngư. - Hay trông vào các ngọn hải đăng: Xa trông đã thấy mũi đèn ở kia…
3. Tri thức về những nơi nguy
hiểm hay an bình, giúp các lái dè chừng, cẩn thận tránh nguy hiểm, hay vào
tránh gió, nghỉ ngơi: - Sóng dâng địa tục
càng cao/Xắc lèo kéo lái gần vào không nên.
- Qua cồn Thống Chế trước sau phải dè. -
Hòn Gầm nghe sóng bổ vang/Đi bảy ngày đàng đến đầm Bà Gia (Khánh Hòa). …
một ngày đến huyện Mộ Hoa/Mĩ Á cửa nọ thực là hiểm
thay (Cửa biển
Mỹ Á ở huyện Mộ Đức Quảng Ngãi hẹp và cạn, tàu thuyền không thể vào đỗ được dễ
dàng, như câu ca dao: Đời ông cho chí đời cha/Đến cửa Mỹ Á thì ta chớ vào).
- Mũi Lãi không
thấp không cao/Các lái ra vào tránh lố khơi khơi …(“Lố” là nơi có đá ngầm,
rạn san hô hay bãi cát nhô lên, dễ cho ghe thuyền bị va vào hay mắc cạn ở vùng
biển tỉnh Quảng Trị, nên Các lái lỡ vời
tăm tối phải coi…). - Hòn Hiền (Quảng Bình) là mẹ là cha/Ai đi đến đó cũng là bình yên. - Ngoài
cù lao, trong đá cao như vách/Vui lòng người quán khách nghỉ ngơi (Cam
Ranh)…
4. Tri thức về những nơi hoang vắng thường có nạn Tàu ô
cướp biển cũng được nhắc nhở những người đi biển lưu ý, dè chừng: Dù ai lên xuống ra vô / Chạy ngoài phải giữ Tàu-ô cướp chừng.
5. Tri thức về những nơi có phong cảnh kỳ thú giúp các
lái thưởng thức, quên đi những mệt nhọc: (...Kìa
như nước biếc lại đèo non xanh. - Lạch Yên Hòa nước chảy trong veo/Nhìn xem phong cảnh cũng chiều/Trông nước nước
biếc, trông đèo đèo cao. - Sa Kỳ cũng vịnh ra vào nghỉ ngơi/Chốn nghỉ ngơi nhiều nơi phong cảnh. - Trà Khúc Quảng Ngãi núi chi/Có hòn Thiên Ấn dấu ghi để
đời.- Ngũ
Hành Sơn nay đã dựa kề/Thấy chùa thờ Phật, Phật về thượng thiên.
6. Tri thức về những nơi ghe bầu
có thể vào lấy củi, nước, vui chơi, bán buôn : + Vào lấy củi, nước: - Lấy neo trong Ngọc (Thanh Hóa) cho yên tấm lòng/Hái củi gánh nước vừa
xong/Chực trời tốt gió ta hòng trẩy vô. - Ghé thuyền gạo củi rồi
lui/Buồm dong ba cạnh thẳng vời chạy vô. + Vui chơi, giải trí, gặp mặt, mua
bán: Nha Trang xuống Chụt (Khánh
Hòa) bao xa/Kẻ vô mua đệm, người ra mua chằng/Anh em mừng rỡ lăng xăng/Người
hỏi thăm vào, kẻ hỏi thăm ra/ Anh em chè rượu hỉ ha. Hay: Kẻ thời ăn
uống vui chơi/Người thời lơi lả chơi bời nguyệt hoa/Người thời mua sóng thay
là/ /Mua đệm cùng mấu lại ca mua ghè/Người thời mua hũ mua ve/Mua đường mua mật
lại ca mua hèo/Kẻ thời mua máy buộc lèo/Người mua sóng lá đem theo xỏ
tiền/Người mua thuốc lá thuốc viên/Người mua thuốc khúc để nguyên đem về.
7. Tri thức về những sản vật địa
phương: - Thuyền qua Quảng Ngãi mía
đường. - Vác ra ngoài mũi sa vàng/Kìa kìa lại thấy
Tam Quan nhiều dừa (Bình Định). - Kìa mũi Tài Phú là nơi nhiều ghè (Bình Định). - Kẻ vô mua đệm, người ra mua
chằng (Mua đệm tức
là lá buôn để làm buồm và song mây làm dây cột buồm (chằng),
Khánh Hòa nổi tiếng). - …Phú Hài, Phan
Thiết đã gần Trà Lung/Nơi nước mắm lẫy lừng danh tiếng…- Cửa Tam Tân nhìn vô
tươi mát/Rừng dầu “chai” xanh ngắt một màu.
- Dầu ai tìm thú vui chơi/Tới
hòn Phú Quốc nhắm đời mà coi/San hô, hổ phách, đồi mồi/Đá huyển, đồn đột, đủ
mùi kiếm ăn/Sơn lâm, hậu phác, hương trầm/Linh qui còn có sanh cầm thiếu
chi/Xiết đâu kể hết tinh vi/Nói sao cho thấu những đồ thổ nghi... - Thái Bình cửa lạch là nơi/ Diêm Điền muối mặn, cá tươi tôm vàng…
8. Tri thức về lịch sử, truyền thuyết: Nhiều địa danh từ
Bắc vào Nam gắn liền với di tích lịch sử, các truyền thuyết dân gian ... đã
được bài Vè ghi lại cho người đi biển hiểu biết thêm về non sông đất nước ta.
Hay khi thuyền đi qua những nơi mà người đi biển cho là linh thiêng, cần ghé
lại dâng lễ vật cúng bái cầu cho an bình trên đường đi và tạo cho người đi biển
an lòng tiếp tục cuộc hành trình muôn vàn nguy hiểm trên biển cả đầy hiểm nguy
đó : Kim ngân lễ vật cúng dường/Lâm
râm khấn nguyện lòng thường chớ quên … -
Vụng Gầm (Thanh Hóa) thân dưới còn xa/Thờ đến thánh Độc (thần
Độc Cước) trở ra bên ngoài/Nào ai buôn
bán trong ngoài/Lấy vàng cúng tiến, cầu thời bình yên. - Đây vào lạch Bạng (Thanh Hóa) không sai/Đền thờ Tứ Vị hôm mai cúng chầu. -
Đất Biện Sơn có đền Thánh Cả/Dâng lễ vào
khỏe mạnh bình yên. - Nào hòn Ba Đọ (Hà
Tĩnh) ở đâu /Kim ngân lễ vật trước sau
phải tuyền. Ngoài biển, hải phận
huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh có các đảo được gọi là Cao Vọng, Bàn Độ, Sơn Dương với
một truyền thuyết rất thú vị. Đảo Song Ngư ở Nghệ An cũng có một truyền thuyết
về tên đảo này. Những người trên ghe bầu ngó
lên Hòn Mắt thẳng dăng ở vùng biển Nghệ An ai cũng nhớ đến truyền thuyết về tên gọi hòn này. Ở Thanh Hóa có
cửa Thần Phù: Lạch Sung thẳng tỏ trông
lên Thần Phù …Qua đây ai cũng nhớ câu ca: Lênh đênh qua cửa Thần Phù/Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm và
truyền thuyết về Áp Lãng Chân Nhơn do
Hồ Nguyên Trừng kể trong Nam Ông mộng lục.
Trên hành trình, ghe bầu đến vùng biển tỉnh Bình Định, biết được địa danh Kẻ
Thử hay Cách Thử đế biết được một truyền thuyết về ngôi chợ người và ma buôn
bán với nhau. Ghe bầu đến vùng biển Phú Yên, ngó lên thấy mả Cao Biền
cũng cho ta biết được truyền thuyết về tướng Cao Biền đời Đường sang cai trị
nước ta. Vào đến vùng biển Khánh Hòa, thấy Hòn Đỏ nằm ngoài khơi huyện Ninh Hòa: Cửa
đò Hòn Khói xa xăm/Kinh ngoài Hòn Đỏ, kinh trong bãi Trầy. Nơi Hòn Đỏ này có tục thờ bà Lỗ Lường của
ngư dân làm nghề lưới đăng với những lễ cúng mang tính phồn thực mà hiện nay
vẫn còn. Tại vùng biển Bình Thuận có truyền thuyết về Thầy Thím: đầy tính chất
huyền thoại, linh thiêng: Lệnh thiêng, Thầy Thím còn kia/Ai đi qua đó chớ mê làm giàu…Ghe
bầu đến Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay được nghe truyền thuyết về Dinh Cô, về núi
Tao Phùng, đến xã đảo Long Sơn nghe truyền thuyết về ông Đạo Trần. Ghe bầu vào
Nam, không thể không nhớ câu: Nhà Bè nước
chảy chia đôi/Ai về Gia Định Đồng Nai thì về để tìm hiểu truyền thuyết tên gọi Nhà Bè do Ông Thủ Huồng tạo lập. Về vùng biển Hà Tiên xưa, tỉnh
Kiên Giang ngày nay nghe kể về Sân Chim của một thời, truyền thuyết về đảo Rùa,
về bà Tống Thị thêu tượng Phật Quan Âm ở chùa Quán Thế Âm ở đảo Đại Kim…
9. Tri thức về Hòn Vọng Phu
hay còn gọi Đá Vọng Phu, Đá trông chồng ở ven biển thì có ở cửa biển
vùng Thanh Hóa, cửa biển Đề Di (Gi) Bình Định, vùng Ninh Hòa (Khánh Hòa)
... Người đi thuyền ven biển có thể thấy
được Hòn Vọng Phu này mà họ gọi là “Mẹ Bồng Con”. Như khi thuyền đến vùng biển
Bình Định, anh em trò chuyện vui
cười/Nhìn lên ngọn núi thấy “Người Bồng Con”/Ngắm trong non nước nước non/Trăng
thu vằng vặc dạ còn như in. Khi
thuyền ngang qua, theo tục, phải làm lễ cầu Bà để thuận buồm xuôi gió: Bắt gà mà lễ một con/Lạy bà bà thổi nồm luôn
đêm ngày.
Những địa danh trong các bài Vè Các Lái, đã cung
cấp một lượng thông tin quý báu, chính xác, có giá trị lịch sử - văn hóa về các
tên làng, tên đất, tên biển, về danh lam thắng cảnh v.v… của đất nước dọc miền
duyên hải, đồng thời cho chúng ta biết người xưa đã làm chủ biển đảo ven biển
nước ta, đã đặt tên, khai thác, định cư …thể hiện ý thức chiếm hữu của người Việt ta từ xa xưa ..., rồi còn vươn ra xa khơi nữa, đến
Hoàng Sa ... Trường Sa ... Có thể nói,
nội dung Vè Các Lái đã xác định được chủ quyền biển đảo của ta từ thưở xa xưa
trong dòng chảy của lịch sử dân tộc Việt.
10. Tri thức về các đồn binh, tấn khẩu :- … Đà Nẵng cửa đặt Tuần Ty (có nhiệm vụ kiểm
soát hàng hóa vận chuyển bằng đường sông, đường biển để thu thuế). - Lý Hòa, Đá Nhảy kề liền Linh Giang/Tấn đây
có lũy có đồn.. - Chuyến đi muốn được
an lành/Vũng Tàu đã đến phải trình sổ ra/Trình đồn rồi lại thẳng qua/Đồng Nai,
Gia Định của ta lại về…
11. Tri thức về thời gian ghe bầu đi trên biển :
Thời gian ghe bầu trong cuộc hành trình được tính bằng đơn vị: - Ngày (hay nhật
trình (Đường đi trong một ngày),
bán nhật trình (Đường đi trong nửa ngày -
1 buổi)): -…Đại Chiêm cửa ấy phỏng đi một ngày. - Thuỷ hành phỏng độ nửa
ngày/ Tột Bồng Sơn huyện, thực đây Sa Huỳnh. - Hòn Gầm nghe sóng bổ vang/Đi bảy ngày
đàng đến đầm Bà Gia. - ... Đến Nha Trang một ngày chầy/Lại thêm nửa ngày đến Tiểu Nha Trang. - … đến Ma Ly phỏng bán
nhật trình …. - Canh (hay trống canh): Khoảng thời gian bằng một phần năm
của đêm, được coi là đơn vị thời gian ban đêm ở Việt Nam ngày xưa: - Một
canh Tiểu Hải bộ hành/Đại Nham ba trống (ba canh), thuỷ trình bao xa?
. - Dặm đường: Thảnh thơi ba cánh
thảnh thơi/Buông xuống Quảng Ngãi một thoi dặm đường. - Một thôi: một hồi
liên tục trong khoảng thời gian tương đối dài: Ngọn từ Xã Thái ồ ồ chảy
tuôn/Một thôi đến Nhật Lệ môn …-
Một đỗi xa xa: Chạy lên một đỗi xa xa/Khỏi mũi Đá Nhảy, Lý Hòa quản bao/Gió Đông ba
cánh chan hòa/Chạy xuống một đỗi đó là Cửa Gianh … - Một đoạn: Gió tây ba cách
chan hòa/Chạy ra một đoạn đã là hòn Ông. - Nhắm chừng (hướng tới một đoạn
đường được xác định tương đối, đại khái): Nhắm chừng vũng Lắm buông qua/Xuân Đài, mũi Yến chạy qua hố Trầu … - Chạy hết …, lại sang …, tới
… , hay Chạy khỏi …: ... chạy hết Cát Thắm lại sang Đồi Mồi... - Chạy
hết bãi dài tới cửa Trà Nông…- ... chạy khỏi cửa Bé lánh thân Trâu Nằm... - Chạy thẳng ngay đến ...: Lòng Sông, mũi Chợ thẳng ngay La Ngàn …
12. Tri thức về luồng gió: Gió có ảnh hưởng nhiều đến
việc đi ghe thuyền. Ghe bầu đi trên biển chạy bằng buồm, tức là nhờ buồm cản
sức gió để thuyền lướt trên sóng nước.
Về gió có các loại gió: Gió bấc; gió nồm (còn gọi là gió nam, gió tống.
Khi ghe bầu vào Vũng Rô (Phú Yên), dù gió nồm gió bấc cũng vào trú được: Vũng Ô Rô bốn mùa cũng khuất/Dựa mặt nồm mặt bấc cũng hay... vì Vũng Rô là nơi tránh gió rất
tốt: …bịt bùng, chỉ một đường vô/
Dầu nồm, dầu bấc không xô phía nào. Còn đến Phan Thiết, Phú Hài, Phan Thiết
lạ đời/Nồm nam dọa dẫm về nơi Bãi Thùng. Có lúc phải đợi gió bấc: Vụng Vơi
chốn ấy đã yên/Chờ cho có bấc thẳng miền
Đồng Tranh. Khi gió thổi mạnh thì
ghe bầu “giương buồm ba cánh” mà cho ghe chạy: Gió ù ù buồm giong ba cánh/Qua Hòn Bà thủng thỉnh đã an …Khi ghe
bầu sắp đến La Gàn (Bình Thuận) thì có lời khuyên: Êm trời ta sẽ lần vào/ La Gàn
có mũi thấp cao kia là. Hay là: Chờ
cho thấy gió, trăng lên/Lên buồm mà chạy như tên thanh nhàn.
13. Tri thức về kỹ thuật lèo lái ghe bầu: Ghe bầu di chuyển bằng buồm xuôi gió, chỉ cần có gió động
buồm là đi được, dù nhanh hay chậm. Những lúc thiếu gió hay gió hơi ngược họ có
kỹ thuật “chạy vát” hay chạy “ganh” rất độc đáo, theo hình chữ “chi”. Tức là
ghe bầu chạy ngược gió bằng cách kéo xiên xiên cánh buồm, nếu ghe nghiêng thì
đặt một đòn dài qua thân ghe, dùng vật nặng đặt một bên làm đối trọng để giữ
trọng tâm thuyền, gọi là chạy “ganh”. Tùy theo độ nghiêng của ghe mà người
trong ghe chạy ra ngồi trên đòn ganh, nếu ghe nghiêng nhiều hơn thì cùng lúc
hai, ba, bốn người ngồi. Đó là kỹ thuật lèo lái ghe bầu khi ghe chạy ngược gió.
Nếu gió xuôi, ghe đi mất 10 phút, còn gió ngược thì đi mất 15-20 phút cho cùng
một quãng đường.. Trong Vè Các Lái có nói về “chạy vát” này: - Có đêm phảng phất gió tây/Vát chày mà chạy
lái ngay vững vàng. - Vát ra khỏi mũi Sa Hoàng/Kìa kìa ngó thấy
Tam Quan nhiều dừa. - - Vũng Tàu kia đã đến rồi/Vát một hồi tỏ rạn Thùy Vân. Trong bài Vè ta có thấy từ “lèo”. Lèo, theo Đại Nam quấc âm tự vị của Hùinh Tịnh
Paulus Của, là “dây gióng lá buồm, kéo lá buồm. Giữ lèo lái: Giữ
lấy dây lèo, bánh lái. Nới lèo: Nới dây lèo ra cho dài hơn. Rán lèo: Rán dây
lèo cho thẳng. Thả lèo: Thả dây lèo, buông dây lèo, có ý làm cho buồm hết bọc
gió. Xả lèo: giống ý trên” 1. Như thế
“dây lèo” “là dây điều chỉnh góc nghiêng
của buồm so với trục dọc thuyền tức là điều chỉnh góc chém của gió vào buồm.
Dây được buộc với thanh lèo. “Dây lèo thượng” là dây nối với đầu trên của “dây
nẹp cạnh buồm” (Dây được khâu nẹp vào
mép cạnh để gia cường cho buồm), rồi
thít lại tại xà treo buồm, dùng để túm lại hay thả lỏng phần phía trên của
buồm, không để phần trên của buồm bị dúm dó” [1]. Người lái ghe thuyền, giữ dây lèo có trách nhiệm chỉnh
lại buồm cho thuyền đi đúng hướng. Có lúc phải nới lèo, - ….nới lèo ráng
lái mau mau/Châu
Me, Lò Rượu sóng xao hòn Nhàn/Ngó vô thấy tháp xinh xinh/Nới lèo, ráng lái Bãi Dinh dậm dài. - Khe Gà nay đã đến nơi/Anh em làm lễ một hồi ta qua/Nới lèo xây lái trở
ra …/ Hòn Lang, cửa Cạn ấy là Tam Tân…Có lúc phải rán lèo (trong
bài Vè gọi là gò lèo) là kéo dây lèo cho ba cánh buồm căng ra
để lái thuyền đi về một hướng nhất định : - Tắt mặt trời các lái ra đi/Nhắm chừng bãi lưới một khi/Tây phương chỉ
mũi lái thì gác dông/Gò lèo ba cánh
thẳng dong/Cà Ná đã tới Khu Ông đã gần. Có khi phải xả lèo hay thả lèo: - Hải Môn Nhật Lệ nghênh ngang ra vào/Sóng
dâng địa tục càng cao [2]/Xả lèo kéo lái gần
vào không nên. Như trên đã trình bày, khi ghe
thuyền chạy ngược gió thì có kỹ thuật “chạy vát”, lúc đó, người giữ lèo “phải chuyển lèo liên tục, lúc lèo phải khi
lèo trái để tiến tới đích” 1. Việc
“chuyển lèo” là việc điều khiển buồm để thay đổi hướng tác dụng của gió vào
buồm, ví dụ như từ mạn phải chuyển sang mạn trái theo các bước: 1. Đang đi lèo
phải, 2.quặt ngược gió để chuẩn bị chuyển lèo, 3. ngược gió, 4. chuyển sang lèo
trái, 5. chạy lèo trái 2. Trong
bài Vè có sử dụng từ “lăn buồm”. Cũng theo tự vị của Hùinh Tịnh Paulus Của,
“lăn buồm” là “cuốn buồm lại”, vì ghe
thuyền được dòng nước đẩy đi: - Lăn
buồm mà dựa 3
cho yên/Ba Non thẳng lái chỉ ngay Cần Giờ. - Lăn buồm dựa Chụt đó là Nha
Trang. Từ “bát” cũng được thấy dùng trong bài Vè. “Bát” là lái thuyền
sang phải, trái với “cạy” là lái thuyền sang trái. Trong tự vị của Hùinh Tịnh
Paulus Của có từ “bát cạy”: Thường nói về sự chèo ghe, khiến đi bên
tay mặt, hay là bên cọc chèo mũi, thì kêu là bát, khiến đi bên phía tay trái
hay là bên cọc chèo bánh, thì kêu là cạy”: Bát vào cửa Đại là nơi/Cồn cát
giữa cửa vịnh vời mới thông. Ngoài ra, trong bài Vè ta còn thấy có từ “bát
cao”, có nghĩa là lái thuyền rất nhiều sang phía bên phải: Mặc ai chèo nhặt bát cao/Giang hồ thương mãi hỏi nào Vũng Luông?
(Vĩnh Luông là tỉnh Vĩnh Long). Có khi bờ biển đổi hướng nên người lái thuyền
cho mũi ghe hướng về phía tây, còn lái quay ra phía đông, gọi là “gác đông”: Đè
mặt trời gác lái chạy ra/Liệu chừng chốn ấy đã qua/Tây phương chỉ mũi lái đà
gác đông/Thuận buồm ba cánh thẳng giong.
Những tri thức đi biển trình bày
sơ lược trên qua các bài Vè Các Lái, cho ta thấy được những kinh nghiệm đi biển
của người xưa lưu truyền cho các thế hệ sau có một giá trị nhất định. Nhờ những
tri thức đó mà những các lái thế hệ sau lèo lái được ghe thuyền hành trình ven
biển giữ được sự an toàn, nhận thức được những gì cần biết. Đó là những hướng
dẫn quý báu, những “cẩm nang” cần thiết của người đi biển. Thế hệ của những
người đi biển lâu năm, họ đã sáng tác bài Vè Các Lái, với mục đích qua rồi chép để hậu lai, luôn nhắc nhở
thế hệ đi biển tiếp sau phải biết đêm
ngày mà đi và mong rằng nên thuộc
bài Vè, trước là xem gió xem trời/Sau thì
cho biết những nơi hiểm nghèo …
1
Hùinh Tịnh Paulus Của, Đại Nam
quấc âm tự vị, NXB Trẻ tái bản, TP Hồ Chí Minh, 1998, trg.559-560.
[1] J.B.Piétri, Voiliers
d’Indochine (Thuyền buồm Đông Dương),
bản dịch của Đỗ Thái Bình, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2015, trg.199.
[2] Sóng biển dâng cao đập vào đất liền liên tục.
1
J.B.Piétri, Voiliers d’Indochine (Thuyền buồm Đông Dương), sđd, trg.197.
2 Theo Voiliers d’Indochine (Thuyền buồm Đông Dương), sđd, trg.198.
3 Dựa: Định hướng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét