Tóm tắt
Thông
qua huyền thoại dân gian và các thành tố văn hóa nghệ thuật có tại địa phương,
cho biết rằng nhận thức về biển đã được bắt đầu từ truyền thuyết và các thành
tố văn học dân gian, phần nhiều là trong ca dao.
Lời
ăn tiếng nói của dân vạn làng chài thể hiện qua quan hệ xã hội con người tại
các làng vạn đã sáng tạo ra một lượng phương ngữ địa phương đặc trưng về biển,
mang đậm sắc thái văn hóa biển, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ toàn dân.
Trong
quá trình đi biển đã đúc rút một số kinh nghiêm về đi biển và đánh, bắt cá
biển. Những phương ngữ dân gian được thay thế để định danh sự vật và hiện
tương, thể hiện văn hóa biển của
dân vạn làng chài.
Những
kiêng cữ khi chưa ra biển và khi ra biển là những ứng xử với cộng đồng, với bạn
lái, bạn chèo của những ngư dân ra biển.
Những
chuyến hải trình trên biển của ngư dân có nghề đi bạn trên những chuyến ghe bầu
vào Nam ra Bắc. Ở đó, họ định danh các vùng biển bờ, đảo, quần đảo, làng mạc
ven bờ,…Biển Đông là đường giao thông huyết mạch giao lưu với các nước trong
khu vực Đông Nam Á trên trường quốc tế
từ xưa-nay.
Ngày
nay nhận thức về biển khác ngày xưa, các phương tiện hiện đại, giao lưu khu vực
và quốc tế rộng mở, các phương tiện bổ trợ về thông tin liên lạc, thăm dò biển
đảo được ngư dân vận dụng vào trong quá trình đánh bắt hải sản từ biển.
Biển Đông là một
biển nửa kín, diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải dài từ vỹ tuyến 30
Bắc lên đến 260 Bắc và từ kinh tuyến 1000 Đông đến 1210
Đông. Biển Đông được bao bọc bởi các nước Việt Nam, Trung Quốc, Philippin,
Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia và lãnh thổ Đài
Loan. Theo ước tính sơ bộ, biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của
khoảng 300 triệu dân các nước. Biển Đông không chỉ là vùng chiến lược quan
trọng đối với các nước trong khu vực mà còn của cả châu Á – Thái Bình Dương và
châu Mỹ.
Nước
ta giáp với biển Đông ở ba phía đông, nam và tây nam. Các vùng biển và thềm lụa
địa Việt Nam là một phần biển Đông trải dọc theo bờ biển dài 3.620 km từ Quảng
Ninh đến Kiên Giang, với nhiều bãi biển tươi đẹp: Trà Cổ, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa
Lò, Cam Ranh, Vũng Tàu,…Cứ 100 km2 thì có 1 km bờ biển, tỷ lệ này
cao gấp 6 lần tỉ lệ của các nước ven biển trên thế giới (trung bình của thế
giới là 600 km2 đất liền có 1 km bờ biển). Không một nơi nào trên
lục địa của Việt Nam
lại cách xa biển tới 500 km.
Việt Nam có vùng nội thủy, lãnh hải,
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa; giữa biển
Đông có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và 2.577 đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ,
hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ các vùng biển và thềm lục
địa. 1
Bờ
biển Quảng Nam, Đà Nẵng dài 150 km,2 từ đèo
Hải Vân đến vịnh Dung Quất (Vũng Quất). Trên vùng biển của Quảng Nam - Đà Nẵng
có nhóm đảo Cù Lao Chàm, nằm cách thị xã Hội An 40 km và quần đảo Hoàng Sa gồm
trên 120 đảo, cách phần đất liền Đà Nẵng 170 hải lý, nằm ở toạ độ 15045/ - 17007/
vĩ độ Bắc và 1110 - 1130 kinh độ Đông, diện tích 305 km2 . 3
Trong quá trình phát triển, biển đã
gắn liền với người dân vùng đất này từ xa xưa trong lịch sử. Người dân Quảng Nam ,
Đà Nẵng đã quen thuộc với biển đảo. Biển đảo đã ghi đậm dấu ấn trong văn hóa
của người xứ Quảng, vì thế họ nhận thức sâu sắc về biển đảo trong quá trình
phát triển của mình. Và từ biển tạo nên nền tảng vững chắc để người dân xứ
Quảng xưa – nay tiếp tục phát huy truyền thống của những lớp người đi trước
tiên phong khai sơn phá thạch nối liền đồng
bằng – núi rừng – biển đảo để phát triển và hội nhập với các quốc gia khu
vực Đông Nam Á và trên thế giới.
1. Nhận thức về biển đảo
Từ xưa, biển đã đi vào tâm thức
người dân xứ Quảng như một thực thể sống động, là lãnh thổ, biên cương của
mình. Sự phát triển của con người vùng đất này được gắn kết trong mối quan hệ
đồng bằng, rừng núi, biển đảo, do đó trong tâm thức của họ, biển đảo như một phần
không thể tách rời trong cuộc sống: -
…Rừng cao rừng thấp mấy tầng núi xanh / Đông thì biển rộng mênh mông… -…Em nay nuôi lợn nuôi gà / Còn anh bám biển
sớm chiều / Ra khơi vào lộng đủ điều chăm lo… - Những ai lo việc biển Đông /
Nhìn trời trông gió mà dong cánh buồm.
Người
Việt trên đường Nam
tiến, thường dựa vào các dòng sông để tồn tại và đồng thời cư dân ven biển lấy
môi trường biển để sinh tồn và phát triển. Các dân vạn, làng chài lấy biển làm
nơi sản xuất trong quá trình mưu sinh, theo đó, biển đảo là nguồn gốc của sự
thăng hoa, tạo nên văn hóa gắn với biển. Đó là văn hóa biển. Bờ biển dài 150 km
/ 3.620 km của cả nước đã tạo nên không gian biển rộng lớn, bờ biển nhiều đoạn
khúc khủy, lồi lõm, cùng với đảo (Cù Lao Chàm), quần đảo Hoàng Sa, tạo nên một
khoảng biển trời yên gió, và đồng thời những eo, vũng, vịnh, … đẹp ven bờ là
những thắng cảnh thiên nhiên ban tặng. Bờ biển Quảng Nam , Đà Nẵng, phía bắc là cửa biển
Đà Nẵng, phía nam có cửa An Hòa. Cửa biển, vũng, vịnh gắn liền với biển theo
cách nhìn đồng bằng, rừng núi, biển cả nên những câu chuyện kể dân gian về biển
đã thấm sâu vào từng số phận đời người vùng biển, nên từ bao đời nay biển là
thiêng liêng, là mãi mãi. Trong tâm thức người dân luôn nương vào biển đảo, hòa
hợp với biển như một phần của mình không thể tách rời ra được. Sự gắn bó với
biển, dấu ấn của biển đảo thể hiện trong chuyện kể dân gian tại xứ Quảng mà huyền thoại Ngũ Hành Sơn là một trong
nhiều thành tố của dân gian. Cô gái xinh
đẹp như tiên trong huyền thoại là tượng trưng cho những con người sinh ra tại
vùng đất này và đó chính là con đẻ của Rồng Vàng đến từ biển cả. Những
người đi khái phá đất đai, gắn với biển, đây chính là hình tượng phát sinh từ
huyền thoại về nguồn gốc dân tộc Việt mà người xứ Quảng là một bộ phận của dân
tộc đó.
Ra
biển phải có phương tiện, chiếc ghe bầu ra đời trong tâm thức dân gian, ở đó họ
gởi gắm ước mơ của mình vào quá trình sản xuất, nên ghe là phương tiện cho nghề
đi biển. Chuyện kể Thầy Thím tồn tại
trong dân gian là điển hình về một ước mơ, về việc lý giải cho nghề đóng ghe
bầu có liên quan đến nghề nghiệp trên biển dưới góc nhìn của dân vạn làng chài
về một huyền thoại Thầy và Thím mang đặc trưng dân gian. Và đồng thời biển cũng
rất thuận lợi trong giao lưu với bên ngoài bằng đường biển. Xưa, người Chăm lấy
biển làm môi trường sinh sống và kế đến là cư dân Việt cũng hành nghề đi biển.
Các làng chài hình thành dọc theo ven biển, ở đó sinh thành và phát triển một
bộ phận không nhỏ cư dân vạn chài và do đó dân
vạn làng chài không thể tách rời môi trường biển cả.
Biển đảo còn đi vào nghệ thuật dân gian, những
ca dao, hò vè là thể hiện biển gắn với tâm thức người dân: - Ngó lên trời, trời cao lồng lộng / Ngó xuống
biển, biển rộng thênh thang / Ai về Tam Hải, Tam Quang / Nhớ đem bao tải mà
mang cá về. - Cá chuồn nhiều nhất
Thanh Khê / Tân Lưu quê bạn cũng nghề biển Đông.
Biển bao la rộng lớn, hiền hòa và êm
ả, biển như cái sân nhà lúc ráng hoàng hôn và lấp lánh vào mỗi bình minh nên
biển quen thuộc với dân vạn làng chài. Ở đó, họ có biển một bên và em một bên. Biển luôn mang lại cho họ sự giàu có,
cuộc sống theo đó được phong phú nhiều mặt: -
An Hòa quê biển mến yêu / Cửa trên, cửa dưới thủy triều xuống lên. - Ai về qua cửa An Hòa / Buồm giương đôi
ngọn, chiều pha ráng hồng.
Ra biển, lấy môi trường biển làm mưu kế
sinh tồn, nhưng không phải lúc nào biển cũng yên lặng mà có lục dịu êm, lại có
lúc dữ dằn và mãnh liệt, sẵn sàng chôn vùi xuống biển những ai không tuân theo
quy luật vĩnh hằng của biển: - Anh đi ba
bữa chưa về / Biển xa sóng dữ chớ hề ở lâu. – Năm canh chẳng biết canh nào /
Nằm nghe sóng biển lao xao trong lòng / Từ ngày thiếp bắc chàng đông / Thuyền
kia chẳng lại hết mong lại chờ. - Ra
đi bữa có, bữa không / Lạy trời đừng để tố giông cho mình. - Một ngày ba bảy
trận giông / Anh đi câu mực sao không thấy về. - Trông ra ngoài biển mù mù /
Biết anh câu mực, câu đù mà thương. – Nghèo mà nghề ruộng cũng ưng / Giàu mà
nghề biển hồn treo cột buồm,…
2. Lời ăn tiếng nói gắn với biển khơi
Hòa vào
biển để sinh tồn, để có một không gian rộng lớn cho văn hóa, cho tư duy liền
mạch giữa núi rừng – đồng bằng – biển đảo, cho sự phát triển bền vững của một
dân tộc và cũng riêng cho vùng đất Quảng Nam, Đà Nẵng, do đó cư dân của dân vạn
làng chài đã hình thành từ biển đảo một lớp phương ngữ địa phương đặc trưng miền
biển. Vì môi trường sống là biển nên trong quá trình ứng xử với biển, với ngư
dân, với xã hội, người dân miền biển đã thấm sâu vào tâm thức kiểu nói năng,
định danh sự vật của dân vạn làng chài qua nhiều thế hệ, hình thành nên một bộ
phận phương ngữ địa phương về biển, mang sắc thái văn hóa biển. Biết rằng, cho
là phương ngữ địa phương miền biển nhưng cũng nằm trong ngôn ngữ dân tộc, do đó
cho ta cái nhìn với sắc thái riêng có của dân vạn làng chài, không lẫn. Dân vạn
dùng những từ ngữ dân gian để thay thế, để định danh sự vật và hiện tượng trong
nghề đi biển, nhưng với dân vạn thì họ hiểu được. Đấy là đặc điểm sáng tạo
riêng, tạo cho vốn từ vựng toàn dân phong phú và đa dạng. Đến với dân vạn làng
chài, ta gặp: vát (chèo ghe ngược
gió), ăn to nói lớn, ăn sóng nói gió, bạn
lái, bạn chèo (những người làm thuê trên tàu đánh cá), đi bạn (đi biển nhưng không phải là chủ ghe), xôi hỏng bỏng không, sụp sạp (sập xuống sạp), nới lèo (nới dây lái), giặn, giặn bân (bận rộn, rất bận rộn), xí (ít), xí xì xi (rất ít), đẳm (nước
đầy tràn), nờm (gió nồm/nam), sắp bay (bọn họ), quá dang (qua lại), rượn (muốn,
lớn), mượt kệ (mặc kệ).
Một bộ phận phương ngữ miền biển riêng
cho nghề đi biển, khi chưa đánh cá thì không bao giờ nói đánh được nhiều cá,
bởi đấy chỉ là điều ước trong tâm thức mong đánh được nhiều cá tôm, nên chưa
chắc đã đánh được cá vì thế đừng nên nói
trước bước không khỏi. Khi giàn rớ/lưới kéo lên, đánh bắt cá xong một lượt,
được ít hay nhiều cá, ngư dân dùng các từ thay thế: trúng mánh, vô mánh. Và khi tàu ghe đầy cá, chuẩn bị quay trở lại
vào bờ, họ nói: no rồi, chững dòng,
chưa hoặc không nghe dùng thôi, cá đầy,
vì như thế sẽ ảnh hưởng đến những lần đi biển tiếp sau sẽ không đánh được nhiều
cá, đôi khi được hiểu tiêu cực hơn là thôi
không bao giờ đi biển nữa. Ngôn ngữ
vùng biển đã trở nên phổ biến với dân vạn làng chài.
3. Tri thức dân gian
về biển
Cư dân làng vạn
do ra khơi đi biển là nghề, lấy biển là môi trường mưu sinh cho cuộc sống nên
họ đã đúc kết được những kinh nghiệm mà qua nhiều thế hệ mới có thể lưu truyền
từ đời nọ sang đời kia. Để có nhiều tôm cá giữa biển cả mênh mông, họ luôn tìm
đến sự an lành thể hiện trong mối quan hệ giữa ngư dân làng vạn với môi trường
chung quanh, từ đó làm nảy sinh sự hiểu biết về biển, về tập tính các loài hải
sản: - Chớp đông nhay nháy gà gáy thì
mưa; - Mò kim đáy biển; - Thương em vì cá trích ve / Vì rau muống luộc vì mè
trộn măng. - Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông; - Trời sương mù nhiều cá thu
cá bẹ; - Leng lao, lẹp nhảy, chuồn
bay,... v.v…để có thể đánh bắt được nhiều cá tôm.
Tuy nhiên không phải lúc nào biển
cũng yên ã mà đôi khi dữ dội, nghiệt ngã trong cái thất thường của thời tiết.
Bài vè Chanchu ghi lại nỗi lòng lo lắng khi lênh đênh trên biển: (…) Nữa
đêm sóng gió tơi bời / Tàu chìm xuống rã rời tay chưn / Thôi thì làm ăn có cái
rủi cái may / Em cố giữ gìn sức khỏe dạy bày cho các con / Ngày anh trở về đây
chỉ có quan hòm / Trên bàn thờ bóng hình anh em thờ đó / Chớ phấn son em chớ
xài / Anh đi chuyến ni gặp cơn bão quá thiên tai / Chớ xác anh trôi dạt ở bên
Đài Loan đây / Hết bão rồi trời lại tan mây / Tàu Hải quân cứu hộ vớt bảy tám
thây thình rồi / Vớt lên mổ ruột sợ hôi / Bỏ bao ny lon ướp muối thôi rồi còn
chi / Anh thiết thề rằng quyết anh đi chuyến ni / May thì kiếm năm mười triệu
phòng khi trong nhà / Thôi thì hồn anh thơ 1
bóng anh ngã Bà / Xa con lìa vợ anh xót xa vô cùng / Ai dè cơn bão quá hung 2 (...)
Xưa kia ngành khí tượng thủy văn
chưa phát triển, việc dự báo thời tiết chưa đúng nên dân vạn làng chài trông
cậy vào kinh nghiệm đi biển dần trở thành tri thức của dân vạn làng chài về
biển và trông cậy vào quan niệm tín ngưỡng tâm linh của mình để tồn tại trong
sóng gió biển xa. Do đó, với dân vạn làng chài việc kiêng cữ khi ra khơi là
việc không phải tìm hiểu nguyên nhân, vì nguyên nhân được giấu kín trong tâm
thức mà việc kiêng cữ được xem là chuyện đương nhiên phải thế.
4. Những kiêng cữ khi đi biển
Trước khi ra biển
Xưa kia chuẩn bị cho một chuyến ra
khơi thật quan trọng, nấu cơm không để cơm cháy, cơm khê, như không được thế sẽ
không nắm lấy vận may. Chuẩn bị cho chuyến ra khơi dài ngày, các loại lưới đánh
cá đều dùng từ thay thế, tương đồng về nét nghĩa chung để ám chỉ: toàn bộ
giàn lưới, phao, dây chạc các loại gọi chung là bộ nghề, khiêng vác xuống ghe tàu thì gọi mang nghề. Đánh bắt xong thu cất lưới,... gọi dọn nghề. Ghe tàu của người đi biển luôn là chốn linh thiêng trên
biển cả. Ghe tàu giống như căn nhà của người sinh sống trên cạn. Mũi tàu là
điểm thiêng, nơi linh thiêng nhất, nơi đó có thần biển tọa ngự, tại điểm này,
thần sẽ giúp cho ghe tàu đi đúng hướng, tránh hiểm nguy, nên dân vạn kỵ đàn bà,
con gái đến gần, hoặc sờ vào mũi ghe tàu lại càng cấm kỵ.
Khi
đi ra biển, dân vạn, làng chài muốn tìm đến sự an lành cho nên trong cái nhìn
của họ cái gì trái với điều ước muốn của họ, luôn phải kiêng dè là biện pháp
phòng tránh theo cách nghĩ có cữ có
thiêng có kiêng có lành. Kiêng cữ đôi khi trở thành cấm đoán được dân vạn
làng chài tin theo và thực hiện, thể hiện qua các nghi lễ hoặc không. Có nghi
lễ như lễ cầu ngư, còn những kiêng cữ khác, theo thói quen phải thực hiện hằng
ngày. Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng những kiêng kỵ của cư dân vùng biển
đã được dân vạn làng chài đặt ra từ xưa, gắn chặt với điều kiện sinh tồn của
họ.
Người
dân làng vạn ăn cá không lật sấp / úp cá mà lần lượt lấy phần xương và tiếp tục
lấy phần thịt cá phía dưới, để hy vọng rằng ghe tàu sẽ được bình an khi ra biển
mà không bị lật. Thói quen kiêng kỵ thường ngày cho họ nhiều tin tưởng vào các
động thái được cho là thuận buồm xuôi gió khi phải thực hiện như là những điều
ước muốn khi ra khơi. Sống chung với biển, khi ra khơi là đối mặt với sự nghiệt
ngã của sóng to gió lớn, những trận bão thình lình kéo đến. Với sức lực của hai
bàn tay nhỏ bé trước bao la biển cả, chắc họ không thể tập trung hết mọi năng
lực để vượt qua, nên những lần bão to sóng lớn như vậy, họ thường hao hụt cả
người và tài sản. Mỗi chuyến ra khơi đi – về, họ luôn tâm niệm có được sự an
lành. Thời trước, khi các điều kiện đoán định thời tiết, các phương tiện ra
khơi an toàn chưa có được, ngư dân luôn trông cậy vào lực lượng siêu nhiêu giúp
họ, từ đó hình thành các lễ cúng, trong đó lễ hội cầu ngư được xem là lễ hội
quan trọng của dân vạn làng chài. Dưới cái nhìn của dân vạn làng chài, cá Ông
luôn giúp họ mỗi khi gặp nạn trên biển, cho nên cúng Ông là trách nhiệm của mọi
thành viên tại các làng chài. 1
Khi chuẩn bị lên ghe tàu ra khơi, họ
cũng tin rằng có ngày tốt và ngày xấu, nên tìm ngày tốt hãy ra khơi, dân vạn
kiêng nhất là ngày sát chủ, tam tai ngày này không mơ ước gì đến ra
khơi. Họ nghỉ ngơi và chờ đợi. Trước khi ra khơi, dân vạn cúng ghe tàu để mong
các lực lượng siêu nhiên – kẻ khuất mày khuất mặt – giúp họ có một chuyến đi –
về thuận buồm xuôi gió.
Những kiêng kỵ trở thành thói quen
hằng ngày, hằng tháng, hằng năm mà không phải bận tâm hay thắc mắc, như việc
chuẩn bị các loại ngư cụ ra khơi là rất quan trọng, khi phơi tấm / tay lưới hay
giàn / bặn mành, không ai được đi dưới giàn bặn. Khi khiêng giàn mành, lưới
xuống ghe tàu luôn phải có một người đi trước dẫn đường gởi một tín hiệu để
tránh có người đi ngang qua trước mặt cản đường. Người trong làng vạn không
phải nhắc nhở khi gặp những trường hợp như vậy, họ tự giác cùng thực hiện những
điều kiêng kỵ với nhau như là mối quan hệ cần thiết trong nghề nghiệp. Khiêng
tấm lưới, giàn mành xuống ghe tàu mà gặp người có thai thì mọi việc phải dừng
lại, phải bắt đầu lại từ đầu. Đoàn người xuống ghe tàu ra biển nếu có ai hỏi
phía sau, thì chỉ trả lời mà không được ngoáy đầu lại như là sự hối tiếc của
công việc mình làm. Dân làng vạn kiêng phụ nữ chạm tay vào lưới vì không rõ vào
thời điểm chạm tay vào, người ấy có sạch không!
Nếu gặp phải những điều kiêng kỵ như vậy chắc chắn người dân làng vạn phải quay
về nhà và phải tiểu tiện xong (xem như đang ở nhà chưa thật sự khởi hành), sau
đó mới trở lại ghe tàu. Những người đang thọ tang người thân thì không được
xuống ghe tàu vì mang theo hệ lụy. Những người đang thọ tang không nên vào ra
bãi biển, nhỡ người đi biển gặp phải thì trên biển dễ gặp phải việc xấu. Người
đi dự đám tang xong, muốn xuống ghe tàu phải tắm gội người sạch sẽ, thay toàn
bộ áo quần mới được bước xuống ghe tàu; hoặc tốt nhất là không nên đến dự đám
tang nào (nếu là đại tang, bấy giờ không ai trong gia đình tổ chức ra khơi, đi
lộng). Khi xuống ghe tàu, nếu đội nón hay cầm nón trên tay mà gió thổi lật nón
là điều không thể, bởi dân vạn quan niệm e rằng ghe tàu có thể bị gió thổi làm
úp ghe. Đã lên ghe tàu chuẩn bị nhổ neo, mọi vậy dụng trên ghe tàu đều phải đặt
ngửa.
Thông qua nhiều kiêng cữ trước cuộc
hành trình dài ngày trên biển để làm ăn, thực hiện mưu kế sinh tồn, họ đã chọn
lọc mọi điều tốt đẹp có thể để hòa mình vào đại dương, xem biển đảo như nhà.
Cho dù ngày nay đã dần loại bỏ một vài thành tố dân gian xem ra đã lỗi thời
khỏi cuộc mưu sinh.
Đánh
bắt cá trên biển
Tàu ghe ra khơi,
khu vực đánh bắt cá không dành riêng cho ghe tàu nào cả, nếu để cho ghe tàu
khác vượt lên trước, cơ hội gặp may mắn sẽ thuộc về ghe bạn vượt lên, chính đấy
thể hiện sự thi đua trong nghề nghiệp. Sinh hoạt trên ghe tàu phải tuân thủ
theo lệ bất thành văn:
Khi
ghe tàu ra khơi người ta cữ không nói tục, không gọi tên hay mắng nhiếc người
khác, vật khác bằng các từ, ngữ khác thường mang tính ám chỉ: đồ khỉ, chó, con vích,... hoặc là úp ghe
là những từ gợi lên điều không hay, được cho là nhiều xui xẻo hơn may mắn.
Không được nói vân tiên khi đang ngồi trên thuyền trên biển, vì vân tiên được hiểu là những kẻ nhàn du,
những kẻ đi bạn rong chơi trên mây, trên biển, không thể đánh bắt được cá.
Lênh
đênh trên biển mà gọi đến sóng là
không lợi cho bạn lái bạn chèo, bởi sóng, gió là hai hiện tượng nguy hiểm trực
tiếp đến tàu thuyền. Ngư dân gọi sóng nhỏ bằng từ thay thế nhóc và gọi tố thay cho
những con sóng lớn.
Đi
trên ghe tàu không để sập chân xuống sạp, cho rằng như thế là chuyến đi biển
không được suôn sẻ, sẽ xôi hỏng, bỏng
không, muốn tiểu / đại tiện phải
sang bên đốc ghe tàu (phía bên hữu / phải) của ghe, không ai được đi bên lái
(phía bên tả / trái). Ghe tàu đang trên đường ra khơi, người ngồi tại mũi tàu
phải hướng về phía trước, không ngồi quay mặt về phía sau, làm ngược lại đồng
nghĩa với việc luyến tiếc đất liền, lưu luyến gia đình, vợ con, và không rõ
đường đâu mà đi được trên biển,... gặp phải sự xui xẻo, bất trắc có thể xảy ra
cho ghe tàu trên biển. Đang đi ra khơi hoặc đã ra khơi, mọi người trên ghe tàu
không được để vật gì rơi xuống biển, nếu để xảy ra hiện tượng xem như chuyến ấy
có khả năng chìm tàu, cần cẩn trọng mọi bắt trắc ở mức cao hơn. Ra đến ngư
trường biển giã, khi đang thả neo không ai được tiểu / đại tiện, bởi ngư dân
quan niệm rằng lúc thả neo giăng lưới bắt cá, các vị thần ở biển trông coi và
giúp đỡ cho ngư dân, do đó nếu làm ô uế nơi thả lưới, thần biển sẽ trách cứ.
Khi đang giăng lưới đánh bắt, sinh hoạt của mỗi thành viên trên ghe tàu hết sức
cẩn trọng. Vào thời điểm giăng lưới xuống biển, không nói đánh bắt mà dùng từ
thay thế múc. Có một kiêng kỵ, thời
trước khi lênh đênh trên mặt biển, các ngư dân không để xảy ra, đó là sơ ý để
con dao rơi xuống biển. Nếu để lỡ tay đánh rơi con dao (dù dao nhỏ) cũng không
thể. Bởi vì làm rớt con dao xuống biển sẽ làm đau thân mình thần biển (Bà
Thủy), làm tổn hại đến thần, thần sẽ quở phạt, không phù hộ cho ngư dân. Nếu đã
lỡ tay, đành xin thần tha lỗi và quay lại đất liền sắm lễ phẩm cúng thần xin
lại con dao và không quên gởi đến thần lời nguyện và cầu xin thần soi xét, thể
tất cho lỗi lầm đó. Khi đang đánh bắt cá, hoặc khi đang trên đường ra khơi, gặp
phải cá voi, người trưởng của ghe tàu nắm chiếc đũa chỉ về hướng khác, nếu cá
voi theo đó di chuyển khỏi mũi ghe tàu, thì tiếp tục cuộc ra khơi, bằng không
được hiểu là trời đuổi, tức khắc phải
quay vào bờ. Bởi cá voi dân vạn làng chài gọi là cá Ông, luôn giúp đỡ những
người đi biển, nhưng khi Ngài đã cản
đường, thì không ra khơi nữa. Người đầu bếp, phục vụ cơm nước cho ghe tàu không
tỏ thái độ buồn bực, không chống cằm ra vẻ chán nãn, suy tư, làm thế sẽ gặp
việc xui xẻo hơn là gặp điều may mắn.
Có
một điều kiêng kỵ đối với hạnh phúc gia đình, đấy là lúc người chồng đang lênh
đênh trên biển, ở nhà người vợ phải giữ lòng thủy chung trong sạch, nếu không được thế, người chồng rất khó lòng
chống chèo giữa biển những khi sóng to, gió lớn, sẽ gặp không ít hiểm nguy trên
chuyến ra khơi để trở về được xuôi chèo mát mái. Để đánh bắt được nhiều cá tôm,
ngư dân không được nhỡ lời chửi mắng lực lượng khuất mày khuất mặt, vì như thế
sẽ không được lực lượng này giúp đỡ mà đôi khi bị hại.
Đang
trên biển khơi ai làm gì đã có phân công trên bờ rồi, không được hỏi nhau nhiều
lời, làm cá không chặt đuôi, bởi cá mất đuôi không bơi được, sẽ không đánh được
cá, không được thả đầu cá, vảy, vi hay ruột cá xuống biển, nếu không sẽ bị Bà
Thủy cắt đứt nguồn cá, ngư dân vì thế sẽ thất thu.
Và khi kéo lưới lên tàu ghe, ngư dân
hô theo nhịp điệu lao động trên biển như kiểu hò chèo thuyền, hò kéo lưới nhưng
gọn chắc, an toàn. Họ lấy hơi và hô hố...
múc ! từng nhịp một để tập trung sức của nhiều người kéo cá lên ghe.
Khi lưới cá vào ghe, vào tàu thì nói chững
thay cho thôi. Chững là còn tiếp tục chứ thôi
là vĩnh viễn cắt đứt mọi con đường ra biển.
Biển khơi dưới cái nhìn của dân vạn
làng chài là vô cùng bí ẩn, luôn có nhiều hiểm nguy rình rập, ở đó có vui nhưng
không thiếu nỗi buồn. Muốn tránh được nỗi buồn họ nhìn biển bằng nhiều cách
khác nhau thể hiện qua việc kiêng cữ ở lời ăn tiếng nói, các động tác trên ghe
tàu phải giữ đúng quy ước,... thế đó đã lặng sâu vào tâm thức dân gian mà không
ai cưỡng lại được. Bởi kiêng kỵ đã thấm sâu vào tiềm thức của dân vạn làng
chài. Để đạt lợi ích mưu sinh từ biển, dưới góc nhìn của dân vạn làng chài, họ
cữ để mong nhận phần hiền hòa của biển mà thiên nhiên ban phát, mặt khác họ
kiêng để mong muốn chế ngự phần hung dữ của biển khơi: - Ngó ra ngoài biển thu đông / Thấy người tiên hạ sao không thấy chàng.-
Trông anh chẳng thấy anh ra / Em ngồi đãi cát sương sa lạnh lùng / Những mong
hai bóng chung cùng / Đâu hay sóng cuốn muôn trùng biển khơi. - Đêm ra ngoài biển đốt đèn / Nhìn lên sao
sáng phận hèn cũng vui. - Con ơi giữ
lấy nghề chài / Dù sao gian khổ ngọt bùi đã quen. - Em nay nuôi lợn nuôi gà / Vào ra chăm sóc ớt, cà, chè, tiêu / Còn anh
bám biển sớm chiều / Ra khơi vào lộng đủ điều chăm lo.- Bao giờ gió lặng sóng
êm / Thuyền anh ra lộng qua đêm lại về.
5. Những chuyến hải trình trên biển
Vào các thế kỷ thứ XVI – XVII, vùng
biển Việt Nam đã trở thành nơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp, tư bản các nước
phương Tây giong buồm vào ra buôn bán. Đông đúc hơn từ thế kỷ XVII, các nước
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, đến nước Anh, nước Pháp, cảng thị Hội An trở
nên phồn thịnh một thời. Thuyền bè các
nước cập bến qua lại nhộn nhịp, bến cảng Hội An thuyền đậu kín cửa Đợi, cột
buồm giương cao, xa trông như những chiếc đũa cắm trên biển.
Người xứ
Quảng cũng hòa vào biển cả bằng những chiếc ghe bầu theo gió mùa đông bắc vào Nam ra Bắc vào
lúc gió mùa tây nam thổi đến. Dân vạn làng chài xứ Quảng cũng hòa vào những
chuyến hải trình vào Nam
ra Bắc và ngược lại trên các chuyến ghe bầu dọc vùng biển Đông rộng lớn. Từ đó
trong số các dân vạn đã có người tham gia thành bạn chèo thuê ra Bắc vào Nam . Biển Đông
của Việt Nam dần rộn lên
cùng với các thương nhân Ả Rập, Ba Tư, góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế
Việt Nam .
Hội An phồn thịnh trong thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, sau đó cảng Bến Nghé
nổi lên và nhanh chóng trở thành một thương cảng quan trọng. Từ các thương cảng
lớn, đoàn ghe bầu trên các chuyến đi buôn, họ chèo ghe dọc theo duyên hải, buôn
bán với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Họ chèo ghe bầu vào đến Hà Tiên,
ra đến Quảng Ninh để giao lưu hàng hóa và sản vật địa phương. Duới cái nhìn của
họ về biển Đông, nơi ghe bầu họ đi qua, họ đặt thành vè mà ta gọi là vè Các
lái, có vè Các lái đường sông, đường biển
(vè hải trình, nhật trình) phản ảnh sinh hoạt của người dân sống dọc ven
biển luôn lấy môi trường biển làm điều kiện phát triển, và giao lưu tiếp xúc
với các nền văn hóa khác bên ngoài. Trong những chuyến hải trình đường biển,
các ngư dân xứ Quảng góp một phần vào việc sáng tác nên những câu vè dọc theo
ven biển. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng vè Các lái ban đầu do một người nào đó
khởi xướng ra vè, về sau hễ đi qua vùng biển nào thì đưa địa danh của vùng biển
ấy vào, từ đó vè Các lái trở thành bài ca do nhiều người cùng sáng tác. Ở Quảng
Nam, Đà Nẵng vào thời vè Hải Môn ca
ra đời có phần đóng góp của ông Lê Văn Phát, quê tại làng Nại Hiên Tây, có ông
Hồ Huyền quê tại làng Khuê Đông, xã Hòa Phụng (nay là phường Hòa Quý, quận Ngũ
Hành Sơn) đọc bài vè các lái Hải Môn ca. Hải môn ca được thâu chép và ghi âm
tại Huế, Đà Nẵng và Phan Thiết trong giới các lái cũ do ba ông Nguyễn Xuân
Đồng, quyền Giám đốc Viện Bảo tàng cổ vật Chàm Đà Nẵng (nay là Bảo tàng điêu
khắc Chăm thành phố Đà Nẵng), ông Lê Văn Thọ tại Phan Thiết và ông Nguyễn Khiêm
tại Huế giới thiệu (Theo Bùi Quang Trung, dẫn theo Ngô Văn Ban trong Tìm hiểu Vè các lái và vè Các lái (bản thảo năm 2013)). Những người sáng
tác, họ thường bắt ngay vào địa danh
nơi ghe thuyền rời bến hoặc tiếp tục cuộc hải trình mà không có sự rào đón,
chuẩn bị trong không gian nào đó. Có địa danh được ghi trên bản đồ địa lý,
nhưng cũng có những địa danh do các ngư dân đặt tên và chỉ có Các lái trên các
chuyến hải trình phân biệt được mà thôi. Ví như từ một góc nhìn nào đó, Các lái
thấy đảo hình con trâu, chó, cáo, gà nên đặt tên đảo trâu, đảo chó, đảo
gà,...Và cũng từ biển, với chiếc ghe bầu, người xứ Quảng đã hun đúc tinh thần
vượt đại dương đi / đến và làm chủ Hoàng Sa, Trường Sa, biển Đông như các bài
vè Các lái vào ra đường biển đã miêu tả, ghi dấu, như cột mốc giao thông trên
đường hành trình vào ra trên biển. Điều đó cho biết rằng vè Các lái đường biển
đã góp phần phản ảnh và khẳng định chủ quyền trên biển Đông của người Việt từ
xưa; phản ảnh quá trình giao thoa tiếp biến văn hóa, hình thành nên lời ăn
tiếng nói thể hiện nghề biển, văn hóa biển: ăn
to nói lớn, ăn sóng nói gió,... đà,
vát,... là phương ngữ dùng trong nghề
đi biển. Trên các chuyến giang trình, hải trình, người làm ăn trên biển bằng
phương tiện ghe bầu cuộc mưu sinh luôn gắn liền với biển, theo đó hoạt động của
họ bị chi phối bởi ký ức mưu sinh từ biển.
Và thông qua nghề đi biển bằng các chuyến hải trình, đã hun đúc con
người xứ Quảng sống ven theo vùng biển tính gan dạ, thoáng mở ra giao tiếp với
các luồng văn hóa đến từ bên kia Thái Bình Dương, từ phía đông vào, phía nam
lên và họ đã thực sự làm chủ biển Đông của mình.
(...) Ngó lên
núi Ải rất cao 1
Ta sẽ lần vào bãi Chuối, hang Dơi 2
Anh em nước củi thảnh thơi,
Hòn Hành nằm đó là nơi cửa Hàn 3
Cửa Hàn còn ở
trong xa
Trước mũi Sơn
Trà sau có hòn Nghê
Vũng nồm, bãi
Bắc dựa kề
Mỹ Khê làng
mới làm nghề lưới đăng
Ngó về Non
Nước thẳng băng
Có chùa thờ
Phật, Phật hằng linh thiêng
Lao Xanh nay
đã gần miền
Hòn La, hòn
Lụi nằm gần hòn Tai
Năm hòn nằm
đó không sai
Hò Khô, hòn
Dài lố nhố nên vui
Ngó về cửa
Đợi thương ôi
Hòn Nồm nằm
dưới mồ côi một mình
Tam Ấp, Hà
Bứa có rạn trời sinh
Bàn Than của
Lở luôn kinh An Hòa
Châu Lai,
Châu Ổ bao xa
Trước mũi
vũng Quýt thiệt là Thống Binh
(...) 1
Nguyễn Thế Anh trong sách Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn, viết về ghe thuyền
đi buôn trên biển: “Hàng hóa được vận tải
bởi các thuyền chạy dọc theo bờ biển: nghề cận hải hành cho phép nối liền Gia
Định, đã trở thành một thương cảng quan trọng với Nha Trang, Qui Nhơn, Hội An,
Đà Nẵng và Hà Nội (...). Một hạng
người chuyên sống bằng nghề vận tải đường thủy: các lái thuyền; đối với những
người này, chính phủ cũng hay áp dụng chế độ cưỡng trưng, bắt họ phải chuyên chở
các vật hạng của chính phủ. Trên nguyên tắc, các thuyền vận tải của tư nhân cứ
một năm lại phải chở của công, còn thì phải nộp tiền thuế để được đi buôn. Khi
phải chở gạo về Kinh, chính phủ cấp cho cước phí “ 2 .
Trên các chuyến hải trình, ghe thuyền các lái phải đi
qua vùng biển có nhiều đảo, rạng san hô, gặp giòng hải lưu khó bề bẻ lái ghe
thuyền, do đó để giúp cho những người lái ghe bầu liệu bề lèo lái, tránh nơi
nguy hiểm, những người đi biển lâu năm, dày dạn kinh nghiệm đặt ra bài vè để
ghi nhớ những địa danh, nơi có chướng ngại vật ảnh hưởng đến chuyến hải trình
ghe bầu đi buôn. Địa danh trong vè Các lái giống như tín hiệu giao thông trên
bộ, đó là tên đảo, tên cửa biển, cửa sông, tên vịnh, vũng,...những vùng biển
nông sâu. Và không chỉ có thế, vè Các lái còn thông báo sản vật, cảnh đẹp của
miền gắn với địa danh, nên khi đi đến đâu vè Các lái đã thông báo rõ ràng nơi
đến với những đặc điểm được kể trong vè. Các lái ngược xuôi – vào ra – trên
biển bằng ghe bầu phải thuộc lòng, xem là những dấu hiệu đi đường: Ai về nhủ các anh đà / Phòng khi ăn tải,
xuống ca chơi bời / Trước là xem gió xem trời / Sau thì cho biết những nơi hiểm
nghèo 3
Họ nhìn biển, nhìn trời, nhìn đất liền và rồi họ thông
tin về địa lý, là sự sắp xếp thứ tự những địa điểm, những tên bến, tên bãi, tên
rạn, tên mũi, tên vũng, tên núi, tên hòn ... nơi nào an bình, nơi nào sóng lớn
gió to cần tìm nơi trú ẩn qua cơn bão tố, nơi nào có đình chùa nổi tiếng, những
phong cảnh đẹp kỳ thú, nơi nào cần ghé vào để nghỉ ngơi, giải trí, bán buôn,
lấy củi nước ... và nơi nào thì gió tạt, sóng xô…. các lái biết mà tránh nguy
hiểm, ... trên đường biển (hải trình), trên đường sông (thủy trình). Dưới góc
nhìn như thế, họ sắp xếp trong một bài vè đã thấm sâu vào trong tiềm thức. Hễ
ai là dân vạn, là bạn chèo đều lấy biển làm cứu cánh sinh tồn, cho nên biển gắn
với đời sống thường ngày của Các lái.
Từ cách nhìn của Các lái, ta còn gặp nhiều cảnh đẹp của
quê hương, đất nước, những nơi thờ cúng của người đi biển, những tâm trạng buồn
nhớ gia đình xa cách lâu ngày, những niềm vui thích thú gặp lại bạn ghe bầu,
những lần thưởng thức những món ẩm thực đặc sản mỗi địa phương.
6. Biển trong
đời sống dân vạn làng chài đương đại
Tiếp tục
truyền thống ra biển của dân tộc, bám biển, giữ biển như trước kia tổ tiên ta
đã làm, nhìn vào lịch sử, thời vua Đinh Tiên Hoàng, năm 972 một phái đoàn của
Nam Việt do Đinh Liễn dẫn đầu dùng thuyền vượt biển đến Quảng Châu (Trung Hoa)
giao kết với nhà Tống. Triều Lê, vào năm 990, vua Lê Hoàn đã cử 300 thủy quân,
9 thuyền lớn vượt biển sang Liêm Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa đón Tống Cảo
– sứ giả nhà Tống – sang nước ta. Rồi đến thời Lý, rồi thời nhà Trần, đều có
đặt quan trông coi và thường xuyên khảo sát, kiểm tra vùng biển Đông của Việt
Nam.
Ngày nay, ta tiếp tục giữ gìn biển đảo như xưa kia tổ
tiên ta đã từng gìn giữ. Ta có một vùng biển Đông rộng lớn, biển không thay đổi
và nhận thức của nhân dân ta cũng không thay đổi về biển Đông. Ngày nay biển
Đông là vùng địa lý sinh tồn của dân tộc, trong xu thế phát triển bền vững của
một quốc gia, vấn đề tri thức về biển đã được trang bị đến không chỉ dân vạn làng chài mà còn đến với tất cả
công dân ở cả 3 vùng kinh tế: núi rừng – đồng bằng – biển đảo. Ngày nay, ngư
dân sinh sống trên biển được ngành Hải dương học chỉ ra rằng, biển Đông là
nguồn tài nguyên sinh vật phong phú và đa dạng, có đến hơn 160.000 loài, gần
10.000 loài thực vật. Ngoài cá tôm sinh sống dưới biển, ở các đảo, quần đảo:
Hoàng Sa, Trường Sa, Cù Lao Chàm (xã đảo Tân Hiệp), với các hòn đảo, chim hải
yến tụ lại sinh sống, các đảo yến ngoài khơi biển Khánh Hòa, có rất nhiều trữ
lượng về yến sào. Đây là nguồn lợi kinh tế phong phú của biển đảo. Cùng với cá
tôm, yến sào, biển Đông của Việt Nam còn có 260 loài chim sống ở biển.1 Vùng biển Việt Nam có hơn 2.458 loài
cá, gồm nhiều bộ, họ khác nhau, trong đó có khoảng 110 loài có giá trị kinh tế
cao. [1]
Các loài động vật thân mềm ở Biển Đông có hơn 1.800 loài, trong đó có nhiều
loài là thực phẩm được ưa thích, như: mực, hải sâm,... Các loài chim biển ở
nước ta vô cùng phong phú, gồm: hải âu, bồ nông, hải yến,...
Ngoài
động vật, biển còn cung cấp cho con người nhiều loại rong biển có giá trị. Đây
là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và là nguồn dược liệu phong phú. Biển nước
ta có khoảng 638 loài rong biển. Các loại rong biển dễ gây trồng, ít bị mất mùa
và cho năng suất thu hoạch cao nên sẽ là nguồn thực phẩm quan trọng của loài
người trong tương lai. Và dưới biển có tài nguyên khoáng sản phong phú với
trữ lượng cao, đặc biệt là các mỏ dầu lửa.
Bờ biển chạy theo hướng Bắc -
Nam dọc theo chiều dài đất nước, lại nằm kề trên các tuyến đường biển quốc tế
quan trọng của thế giới, có những vũng sâu kín gió là điều kiện thuận lợi để phát triển giao
thông vận tải biển và mở rộng giao lưu với bên ngoài. Biển Đông được coi là con
đường chiến lược về giao lưu và thương mại quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái
Bình Dương, ở cả bốn phía đều có đường thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua các eo biển. Từ các hải cảng ven
biển của Việt Nam thông qua eo biển Ma-lắc-ca để đi đến Ấn Độ Dương, Trung
Đông, Châu Âu, Châu Phi; qua eo biển Basi có thể đi vào Thái Bình Dương đến các
cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ và Bắc Mỹ; qua các eo biển giữa Phi-lip-pin,
In-đô-nê-xia, Xin-ga-po đến Ôtx-trây-lia và Niu Di Lân... Hầu hết các nước
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều có các hoạt động thương mại hàng hải
rất mạnh trên Biển Đông. Trong tổng số 10 tuyến đường biển lớn nhất trên thế
giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông.
Có
gần 82 hòn đảo ven bờ, trong đó 24 đảo có diện tích trên 10 km2,
cách bờ không xa là những hệ sinh thái đảo hấp dẫn. Ở đây không khí trong lành, nước biển trong và sạch, bãi cát
trắng mịn. Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha, Bích
Động, Non Nước... Các di tích lịch sử và văn hoá như Cố đô Huế, phố cổ Hội An,
Tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm,... phân bố ngay ở vùng ven biển.
Các trung tâm kinh tế thương
mại, các thành phố du lịch nằm ven biển hoặc cách bờ biển không xa như Hạ Long,
Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Hà Tiên, Hà Nội, Sài Gòn,... Hệ thống đường bộ,
đường xe lửa xuyên Việt và liên vận quốc tế chất lượng cao được xây dựng dọc bờ
biển. (tinmoitruong.vn).
Dân vạn làng chài Quảng Nam, Đà
Nẵng ngày nay có đủ tri thức về biển đảo và tài nguyên của biển đảo và có kinh
nghiệm đánh bắt cá khơi xa; họ được trang bị các loại công cụ hỗ trợ trong quá
trình đi biển; người đi biển còn được hun đúc tinh thần không chỉ của dân vạn
làng chài mà còn có sự theo dõi, quan tâm của đông đảo người dân ở cả 3 vùng
kinh tế: núi rừng – đồng bằng – biển đảo; đồng thời theo quá trình phát triển,
những chiếc ghe / tàu nan tàu gỗ được thay dần bằng loại tàu thân sắt, tiếp tục
vươn ra khơi xa, vững bền trước phong ba bão táp, đánh bắt nhiều tôm cá, khai
thác nhiều tài nguyên hơn nữa và đồng thời tham gia vào giữ gìn cương vực của
Tổ quốc Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo
-
Giới thiệu về biển đảo Việt Nam, Nguyễn Hà, NXB TT&TT, 2013.
-
Biển với người Việt cổ, Viện Đông Á, NXB TT&TT, 1996.
- Biển
Đông và hải đảo Việt Nam, Nhiều tác giả, NXB Tri thức, 2010.
- Kinh
tế & Xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nguyễn Thế Anh, Nxb Văn
Học, Hà Nội, 2008.
- Lịch sử Đảng bộ QN-ĐN (1930-1975), Nhiều
tácgiả, NXB. CTQG, 2006.
- Văn hóa dân gian Đà Nẵng, Hội VNDG Đà Nẵng, Sở TT&TT Đà Nẵng,
2014.
- Văn hóa dân gian Đà Nẵng, Hội VNDG Đà Nẵng, Sở TT&TT Đà Nẵng,
2015.
- Văn hóa biển đảo Khánh Hòa, Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Sở
TT&TT tỉnh Khánh Hòa, 2011.
- Ca dao dân ca đất Quảng, Nhiều tác giả, NXB Đà Nẵng, 2008.
- Tiếng địa phương trong ca dao vùng QN - ĐN, Đinh Thị Hựu, NXB VHDT,
2011.
- Sổ
tay đảng viên, NXB Chính trị Hành chính, 2012.
- Văn hóa biển miền Trung trong mối quan hệ
với văn hóa biển
Đông Nam Á, GS.TS. Mai Ngọc Chừ, vanhoahoc.com
- Tinmoitruong.vn
- Tham khảo ý kiến của hội viên Hội VNDG
Đà Nẵng.
1 Giới thiệu về biển, đảo Việt Nam , Hà
Nguyễn, NXB TT&TT, 2013.
2 Có tái liệu chép 125
km, 174. Chúng tôi sử dụng số liệu theo Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng.
3 Lịch sử Đảng bộ
Quảng Nam
– Đà Nẵng (1930-1975), BNB. CTQG, 2006.
1 Thơ trong từ ghép thơ thẩn.
2 Vè Bão Chanchu
28/5/2006. Ghi tại Nam Ô, phường Hòa Hiệp, quận Liên Chiểu năm 2015.
1 Căn cứ vào hình
dạng của đầu Cá Ông, ngư dân đã phân biệt ba loài Cá Ông chính: loại có đầu
tròn gọi là Ông Chuông, Ngài Chuông;
loại có đầu có mỏ dài như cá kìm gọi là Ông
Kìm, Ngài Kìm và loại có kỳ cao trên lưng như cây phướn gọi là Ông Phướn, Ngài Phướn.
Do tín ngưỡng tâm
linh về sự phù hộ của Thần, Phật, nên cộng đồng ngư dân làm nghề đánh cá biển
thường gọi Cá Ông bằng nhiều danh xưng tôn kính khác nhau tùy theo các địa
phương như Cá Ngài, Ông Nam Hải, Ông Lớn,
Ông Cậu / cô, Ông Lộng, Ông Khơi, Ông Chuông, Ông Kìm, Ông Phướn, Ông Sứa
v.v... và coi Cá Ông như một vị thần hộ mệnh giữa biển khơi đầy sóng gió và họ
có nhiệm vụ thờ cúng khi Cá Ông lụy để đền ơn đáp nghĩa theo luật nhân quả của
Nhà Phật và cầu mong Cá Ông phù hộ cho thuyền đánh cá của họ ra khơi vào lộng
được an toàn và khi quay về tôm cá đầy ghe.
Theo kinh nghiệm
của ngư dân, trong ba loài Cá Ông nói trên thì Ngài Chuông và Ngài Kìm được
sùng bái hơn Ngài Phướn.
Các nhà nghiên
cứu văn hóa dân gian thống nhất đưa ra tên gọi Lễ hội cầu ngư, thảng trên các phương tiện truyền thông còn gọi là Lễ hội cầu ngư vùng / miền biển.
Lễ hội cầu ngư,
một cách gọi chung các thành tố nối tiếp nhau theo một trình tự nhất định diễn
ra trong lễ hội: Lễ Nghinh Ông, Lễ cúng Tiền Hiền – cúng Thần linh, Lễ tế cá
Ông – Lễ Cầu ngư và kết thúc bằng nghi lễ dân gian hát bả trạo, trong đó Lễ tế
cá Ông là lễ chính.
Trong dân gian
miền biển, cư dân sống bằng nghề đánh bắt cá, tôm, thường gọi là Lễ tế Ông, hoặc Lễ cúng Ông.
Trong lễ tế Ông
phần chủ yếu là xin ông cho đánh bắt được nhiều cá, tôm,…quan trọng là cầu xin
Ông cho trời yên, biển lặng để ra khơi được an toàn.
1 Núi Ải: núi Ải/Hải
Vân. Tại núi Ải có Hải Vân quan, nơi ranh giới giữa Thừa Thiên – Huế với ĐN, di
tích lịch sử, đồng thời nay là điểm du lịch đường đèo Hải Vân. Là đèo Hải Vân
giữa Huế và ĐN. Từ câu: Ngó lên núi
Ải rất cao… đến câu …Bàng Than, Cửa Lở luôn kinh An Hòa,
các lái đã chèo ghe thuyền vào vùng biển đất Quảng.
2 Bãi Chuối: Bãi
gần biển dưới chân Hải Vân sơn, nơi có nhiều cây chuối rừng mọc. Dị bản: Hố Chuối: một bến nhỏ phía nam núi Hải
Vân, thuộc t. Thừa Thiên – Huế, trên bến, theo hai bên hố nước có nhiều cây
chuối rừng mọc tự nhiên; hang Dơi: Trên sườn phía đông núi Hải Vân, có hang nơi
nhiều dơi quy tụ về sinh sống. Bãi Chuối, hang Dơi có địa hình thấp trũng, theo
đó gió thường thổi qua đây rất mạnh, dân gian gọi gió lò. Hai địa danh này ở
dưới chân núi Hải Vân, nằm về phía đông.
3 Hòn Hành: Ngọn
núi nhỏ nằm phía bắc vịnh ĐN (vũng Thùng), trông xa hòn như củ hành; dị bản: Hòn Hành nằm đó là trong vịnh Hàn. cửa
Hàn: Cửa ĐN, nơi giao nhau giữa biển của vũng Thùng và sông Hàn.
1 Vè Các lái, lái
vô, đoạn qua tỉnh Quảng Nam, tp. Đà Nẵng và tỉnh Quảng Ngãi.
3 Đà: nghề chạy thuyền
buồm đường dài trên biển. Tải: chở, ăn tải: ăn hàng, lấy hàng xuống thuyền chở
đi. Ca: chuyến thuyền chở hàng.
1 Trữ lượng các loài động vật ở biển ước tính khoảng 32,5 tỷ tấn, trong đó,
các loài cá chiếm 86% tổng trữ lượng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét