Âm nhạc đóng vai trò
rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, nhất là các nghi lễ và
lễ hội mang tính tôn giáo. Mặc dù trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm,
dân tộc Chăm đã trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi, song nghệ thuật âm nhạc
của họ dường như bất biến với thời gian, đồng thời vẫn còn lan toả sức sống
mãnh liệt trong các sinh hoạt tinh thần của người Chăm.
Hành trình của âm nhạc truyền thống Chăm tiến triển theo
những bước đi khá đặc biệt. Trong quá trình lập quốc, người Chăm đã chịu ảnh
hưởng của nền văn hoá Ấn Độ và văn hoá khu vực Đông Nam Á. Trước bối cảnh
nghiệt ngã của lịch sử dân tộc Chăm và trên con đường Nam tiến thu hẹp dần lãnh
thổ vương quốc Champa, người Chăm đã hiển nhiên giao lưu, tiếp biến văn hoá với
những dân tộc khác và đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nghệ thuật âm nhạc Chăm
sang các vùng đất lân cận. Hệ quả tất yếu ấy đã tạo nên nền nghệ thuật âm nhạc
dân gian Chăm độc đáo, phong phú và phản ảnh trung thực những tâm tư tình cảm
của một dân tộc dù qua bao cuộc bể dâu vẫn giữ gìn được nguyên vẹn bản sắc của
mình và đã từng có một nền văn hoá vô cùng rực rỡ từ lâu đời.
Sống trên vùng đất
Quảng Nam - Đà Nẵng, nơi còn hiện hữu bao phế tích điêu tàn của Vương triều
Champa với thánh đô Trà Kiệu, thánh địa Mỹ Sơn, với bảo tàng điêu khắc Champa
vô giá. Đó là những chứng tích đầy sức thuyết phục về lịch sử văn minh của một
dân tộc đã tồn tại hơn 20 thế kỷ qua ... tất cả đã thôi thúc chúng tôi mạo muội
tìm hiểu nghệ thuật âm nhạc của tộc người Chăm Nam Trung Bộ (nhóm người này có
số dân chiếm phần lớn trong cộng đồng người Chăm ở nước ta), đồng thời tìm hiểu
mối tương quan chung giữa âm nhạc Chăm với âm nhạc của các tộc người khác trong
quá trình giao lưu, tiếp biến.
1. Giao lưu tiếp
biến với âm nhạc truyền thống Ấn Độ
Vương quốc Champa nằm
trên một địa thế hình cánh cung trên bờ biển Thái Bình Dương vào khoảng cuối
thế kỷ II sau Công nguyên. Trong tiến trình phát triển của dân tộc, người Chăm
đã tạo dựng cho mình một nền văn hoá có bản sắc riêng dựa trên nền tảng văn hoá
Nam Á, trong mối giao lưu với văn hoá các tộc người lân cận, đặc biệt là văn
hoá Ấn Độ. Vì thế người Chăm sử dụng tiếng Phạn, đồng thời trong nghệ thuật
kiến trúc, điêu khắc ảnh hưởng rất mạnh mỹ thuật Ấn Độ và tất nhiên khi xây
dựng nền âm nhạc cho dân tộc mình, người Chăm đã căn bản dựa trên nền âm nhạc
truyền thống Ấn Độ.
Tuy nhiên, người Chăm
đã tiếp nhận văn hoá Ấn Độ đầy sáng tạo qua một quốc gia trung gian là Java
hoặc Mã Lai. Chính vì thế, trong biên chế dàn nhạc cổ truyền của người Chăm có
một số nhạc khí được các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết là có nguồn gốc từ
Mã Lai hoặc Java, như trống Baranưng
và Ginăng.
Tại một số vùng thuộc
Mã Lai, Indonesia và Campuchia (Đông Nam Á) cũng có những điệu nhạc tương tự
nhạc Chăm. Đó là hệ quả tất yếu vì trước khi du nhập vào người Chăm ở Việt
Nam thì nền văn hoá Ấn, đã đi qua một số quốc gia trong khu vực và để lại những
dấu ấn về nghệ thuật âm nhạc còn được lưu giữ trên những vùng đất ấy. Từ đó
chúng ta có thể suy luận rằng dàn nhạc truyền thống Chăm trong các lễ Rija cũng
đến từ Java (đọc theo phiên âm của tiếng Việt là Chà Và).
Vai trò của Ấn Độ đối
với lịch sử quá khứ của Chămpa vô cùng quan trọng, chính vì thế G. Coedes đã
từng cho rằng nếu không có Ấn Độ thì quá khứ của Chămpa cũng giống như của Tân
Ghinê hoặc Australia.
Mặc dù nghệ thuật âm
nhạc Chăm chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền âm nhạc Ấn Độ, song qua quá trình
lịch sử đấu tranh để tồn tại và bảo vệ truyền thống văn hoá độc đáo của mình,
sự ảnh hưởng này ngày càng bị Chăm hoá đi theo thời gian. Bên cạnh đó, đáng
chú ý hơn là nhạc Chăm ngày càng có mối quan hệ khá sâu sắc với nhạc Việt.
2. Giao lưu, tiếp biến
với âm nhạc truyền thống người
Việt và âm nhạc Tây Nguyên.
Quá trình giao lưu,
tiếp biến giữa âm nhạc Chăm với âm nhạc Việt bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên
lẫn điều kiện lịch sử.
Sử
sách từng ghi nhận : Vào năm 982, khi vua Lê Đại Hành (980-1005) xâm chiếm nước Chiêm, ông đã bắt về nước một vị hoà thượng người Ấn Độ và 100 cung
nữ, các nhạc công của nước Việt phải
tập diễn tấu nhạc Chăm để đệm cho số cung nữ này múa hát, đây cũng chính là dịp
để nghệ thuật âm nhạc Việt tiếp xúc với nghệ thuật âm nhạc Chăm. Ngoài ra, các
bức tượng Chăm trên các tháp cổ cũng
đã ghi lại hình ảnh các tiên nữ múa hát trong cõi thanh tịnh, thuần khiết.
Những hiện tượng này có thể phần nào
đã ảnh hưởng đến nghệ thuật ca múa
nhạc của người Việt.
Nổi bật nhất trong
nghệ thuật âm nhạc của Chămpa là dòng âm nhạc nghi lễ. Vì người Chăm quan niệm
rằng âm nhạc là của thần thánh, cho nên âm nhạc của họ thường mang tính chất
trầm lắng, u buồn. Trong lịch sử, Vương quốc Chiêm Thành khá hiếu chiến, thường
đem binh đi xâm chiếm các nơi như Giao Châu, Thủy Chân Lạp hay Phù Nam, song
âm nhạc của họ đã không có những khúc nhạc mạnh mẽ, hùng tráng ngay cả trong
thời kỳ hưng thịnh của Vương quốc Chămpa. Và chính đặc tính âm nhạc ấy đã có
ảnh hưởng sâu sắc đến âm nhạc của một số tộc người có liên quan trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Thế nhưng các sử gia
triều Nguyễn thế kỷ XIX đã viết: “khúc
điệu Tây Thiên là thang âm mất nước”, điều này nên xem xét lại vì thực sự
không phải chỉ khi lãnh thổ bị thu hẹp dần thì âm nhạc người Chăm mới nhuốm
màu sầu thương uỷ mị.
Lịch sử ghi chép: vào
thế kỷ XI, vua Lý Thái Tông sau khi thắng trận quân Chiêm, nhà vua đã bắt một
số vũ nữ Chiêm Thành về nước để múa hát khúc Tây Thiên. Đến năm 1202, vua Lý
Cao Tông lại yêu cầu các nhạc sĩ trong triều phải dựa vào nhạc Chăm để soạn
khúc Chiêm Thành âm. Khi chúa Nguyễn khai thác bờ cõi tiến vào đất Chiêm Thành,
âm nhạc Việt từ phía Bắc tới phía Nam đã bị ảnh hưởng của nhạc Chăm và biến
thành những cung Nam ai oán.
Mặc dù âm nhạc nghi lễ
là dòng nhạc chủ yếu trong nghệ thuật âm nhạc Chăm nhưng ảnh hưởng của âm nhạc
Chăm đối với âm nhạc Việt, thể hiện rõ nét hơn cả là thể loại dân ca như dân
ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Huế, dân ca Nam Trung Bộ, dân ca Nam Bộ và dân ca
Tây Nguyên. Sở dĩ có hiện tượng này là do quá trình giao thoa và tiếp biến văn
hoá của cộng đồng người Việt xưa cũng như của một số tộc người Tây Nguyên đối
với tộc người Chăm.
Một số nhà nghiên cứu
âm nhạc dân gian Việt Nam đã phát hiện những cung bậc giống nhau giữa làn điệu
dân ca Chăm và làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh. Trong một số làn điệu quan họ
cổ thường có những tiếng đệm i, hi, ư, hư... gần giống với phong cách các lối
tụng ngâm của nhà chùa. Ngoài ra nó cũng tương tự với những điệu nam ai, nam
bằng có giai điệu và tiết tấu ảnh hưởng tính chất của những khúc hát Chiêm
Thành thể hiện nét buồn tĩnh lặng.
Còn về lĩnh vực di sản văn hoá vật thể, ngày nay chúng ta có thể nhận thấy
kiến trúc xây dựng chùa chiền ở vùng Bắc Ninh được phỏng theo kiến trúc Chiêm
Thành như: Chùa Dâu xây theo kiểu tháp Chăm, hoặc chùa Phật tích có nhiều hình
chạm khắc những cung nữ Chăm đang gãy đàn, thổi sáo. Hiện tượng này cũng là
một trong những bằng chứng đầy sức thuyết phục về ảnh hưởng của nền văn hoá
nghệ thuật Chăm đối với vùng Bắc Ninh.
Đáng chú ý là các làn điệu dân ca Chăm rất gần gũi với những điệu lý như
lý Hoài nam, lý Con sáo, lý Ngựa ô của người Việt ở Bình Trị Thiên, lý Con
quạ, lý Thiên thai, Xuân nữ bài chòi ở Nam Trung Bộ.
Trong dân gian đã tương truyền rằng ngày xưa, khi người Chăm chung sống hoà bình với người Việt thì người Chăm đã
truyền lại nghề biển cho người Việt
như đánh cá, làm mắm, làm thuyền
bầu, đồng thời dạy đàn hát và để lại tục thờ phụng lễ tạ thổ nhằm cúng tế thổ
thần (thần linh cai quản vùng đất địa phương), những người đã có công khai khẩn vùng đất Nam Trung Bộ từ thuở xa
xưa. Nhà trí thức Đàng Năng Quạ (Hữu Đức, Ninh Phước, Ninh Thuận) nay đã qua đời, trước đây còn cho
rằng: màu tím Huế và từ “ôn” (ông) của người xứ Huế là do ảnh hưởng
Chăm. Riêng về lĩnh vực âm nhạc dân gian cũng có những ảnh hưởng đáng kể. Ngoài ra Theo Giáo sư Trần Quốc
Vượng những tộc họ Ông, Ma, Trà, Chế đều xuất thân từ Tộc người Chăm nay cũng
có trong cộng đồng người Việt.
Trong
quá trình tìm hiểu những nét đặc trưng của dân ca Chăm, chúng ta nhận thấy
nhiều câu hát Chăm thường luyến xuống một quãng 2 trưởng và lối kết câu này
xuất hiện nhiều trong các điệu hò, lý, hát ru của dân ca Bình Trị Thiên.
Có một bài hát mang tính chất hò lao động lại được tìm thấy
trong một sinh hoạt nghi lễ, đó là bài MưkJal (Vãi chài ). Có thể, trước đây trong đời sống của người Chăm còn tồn tại một hình thức ca hát, đó là hát lao động với tiết tấu đều đặn, nhịp nhàng để thay hiệu lệnh điều khiển động tác trong khi lao động cho đồng bộ, hơn nữa tạo thêm tinh thần phấn chấn vui vẻ mà quên đi mệt nhọc. Hình thức hát hò này rất gần với các điệu hò lao động của người Việt.
trong một sinh hoạt nghi lễ, đó là bài MưkJal (Vãi chài ). Có thể, trước đây trong đời sống của người Chăm còn tồn tại một hình thức ca hát, đó là hát lao động với tiết tấu đều đặn, nhịp nhàng để thay hiệu lệnh điều khiển động tác trong khi lao động cho đồng bộ, hơn nữa tạo thêm tinh thần phấn chấn vui vẻ mà quên đi mệt nhọc. Hình thức hát hò này rất gần với các điệu hò lao động của người Việt.
Có một số bài dân ca trong lao động của người Chăm mang âm hưởng của các điệu hò lao động trên sông nước tiêu biểu của người Việt ở miền Trung và Nam Trung Bộ như: hò mái nhì,
hò mái đẩy ở Bình Trị Thiên; hò
khoan, hò chèo thuyền ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng; hò mái trường, hò mái đoản, hò chèo ghe ở tỉnh Bến Tre.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy sự tương đồng về mặt giai điệu
giữa các bài hát giao duyên của người Chăm với các bài hát giao duyên của các
tộc người khác, đặc biệt là người Việt sống cận cư, cộng cư và xen cư với
người Chăm.
Bên cạnh đó, những nét tương đồng về điệu thức giữa dân ca Chăm và dân ca
Việt đã dẫn đến giả thuyết cho rằng người Chăm đã sử dụng điệu thức gần giống
Dorien trên địa bàn cư trú của họ ngày xưa, trải dài từ Trung Bộ đến miền
Đông Nam Bộ. Điệu thức này đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến dân ca Huế, dân ca Nam
Trung Bộ, nhạc tuồng và nhạc cổ truyền Nam Bộ có tên gọi là hơi Ai, hơi Oán.
Dần dần về sau, nhạc tài tử, cải lương đã khai thác và cải biên thêm để
tạo nên điệu Oán có nhiều sắc thái bi thương từ điệu Nam Ai, tương tự với
những làn điệu dân ca Chăm - nguồn tài sản tinh thần mà những đoàn di dân mang
theo hành trang của mình trên bước đường di cư từ vùng Nam Trung Bộ tiến dần
vào miền đất xa xôi gần cuối phương Nam nước ta.
Nhạc sĩ Trần Văn Khê đã từng kết luận: “Rõ
ràng sự phân bố lan ra về phía Nam của người Việt và của âm nhạc Việt là cả
một quá trình giao lưu văn hoá và hoà hợp dân tộc rộng rãi, sâu sắc và lâu dài
với người Chăm, khiến cho nhạc Việt đã nhuốm màu Chăm”.
Thật ra thì mối quan hệ giao lưu,
trao đổi, tiếp thu ảnh hưởng lẫn
nhau giữa âm nhạc dân gian Chăm, Việt và các tộc người khác là một quy luật tất
yếu trong tiến trình của lịch sử.
Trước hết trong âm nhạc truyền thống của hai dân tộc có rất nhiều nhạc khí
giống nhau. Đặc biệt trong một số nhạc khí thuộc Họ dây của Chăm có cấu tạo và
chức năng tương tự các nhạc khí truyền thống của người Việt như đàn tranh (Champi) và đàn bầu (Kaping), nay đã thất truyền ở vùng người Chăm nhưng lại được bảo
lưu và phát triển ở người Việt.
Cũng như các dân tộc Tây Nguyên, người Chăm quan niệm rằng âm nhạc là một
loại hình nghệ thuật của thần thánh, là phương tiện thông quan giữa con người
với thần linh, âm nhạc chỉ dành riêng cho chốn thiên đường. Bởi vậy, cho tới
ngày nay, ở người Chăm cũng như các dân tộc Tây Nguyên, âm nhạc thường được
tấu lên trong những dịp tế lễ, cúng thần thánh.
Trong hệ thống nhạc khí truyền thống của người Chăm có nhiều nhạc khí
tương tự các nhạc khí Tây Nguyên như đàn bầu (Kaping), kèn sừng trâu (Kadet),
sáo (Wau), trống (Hagar), chiêng (Chêng), tù và (Asăng), đồng thời giữa dân ca Chăm và
dân ca Hrê Tây Nguyên cũng có một số bài có làn điệu khá giống nhau.
Sau giai đoạn lịch sử hàng ngàn năm giao lưu và tiếp biến văn hoá, các yếu
tố Ấn Độ đã hoà nhập vào âm nhạc truyền thống cũng như những lĩnh vực văn hoá
của người Chăm mà ngày nay chúng ta khó phân định được ranh giới. Song hệ quả tất yếu từ quá trình giao lưu tiếp
biến giữa Ấn và Chăm là cả một kho tàng văn hoá đầy bản sắc độc đáo, trong đó
âm nhạc chiếm giữ một vị trí vô cùng quan trọng.
Trở về với quá khứ của lịch sử, chúng ta biết rằng qua rất nhiều cuộc giao
tranh giữa nước Việt và Chămpa, nhân dân đất Việt xưa kia đã tiếp xúc thường
xuyên với nhân dân Chăm. Sự trao đổi văn hoá giữa hai nước càng lưu thông sau
cuộc hôn nhân giữa vua Chăm Chế Mân và công chúa Huyền Trân năm 1306. Như vậy
là trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh xã hội, người Chăm ngày
càng hoà hợp với người Việt và dần dần trở thành một bộ phận trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam.
Qua nghiên cứu tài liệu cũng như điền dã, chúng tôi thấy nhạc khí và dân
ca Chăm ở Ninh Thuận đã thể hiện một phần về những mối giao lưu văn hoá với
các tộc người khác trong một hoặc vài giai đoạn lịch sử nhất định. Chính nét
đặc trưng của âm nhạc Chăm ở Ninh Thuận đã phản ánh được mối giao lưu, tiếp biến quan trọng nhất của người
Chăm trong suốt chiều dài lịch sử cũng như khả năng bản địa hoá của họ đối với
những yếu tố tiếp thu từ bên ngoài.
Lịch sử lâu đời và nền văn hoá phong phú rực rỡ của Chămpa đã chan hoà vào
lịch sử và văn hoá chung của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình lịch sử đấu
tranh và hoà hợp ấy, mối quan hệ giao lưu văn hoá tất yếu đã hình thành và
phát triển giữa hai dân tộc mà trên thực tế có thể tìm thấy qua những nét gần
gũi, tương đồng trong kho tàng văn nghệ dân gian cũng như trong lĩnh vực âm
nhạc của người Việt và người Chăm.
Chính vì thế, muốn tìm hiểu nền văn hoá nghệ thuật Chăm, chúng ta phải đặt
nó trong một tổng thể nguyên hợp của nền văn hoá nghệ thuật truyền thống thuộc
các tộc người cùng cộng cư xen cư và cận cư trên lãnh thổ Việt Nam./.
Bài viết trích từ cuốn sách cùng tác
giả: “Âm nhạc Chăm – những giá trị đặc trưng” do NXB Văn hóa dân tộc xuất bản năm 2010. Cuốn sách đạt giải
thưởng của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 2010.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét