Chúng ta vẫn còn chưa hoàn thoàn
thống nhất về ranh giới giữa văn hóa dân
gian, văn hóa bác học và văn hóa cung đình trong nghiên cứu văn hóa, nghệ
thuật. Nội hàm của chúng có lúc chúng ta vẫn chưa xác định rõ.
Trong nền văn hóa Việt
Nam có ba dòng văn hóa lớn: văn hóa dân gian, văn hóa bác học và văn hóa cung
đình, trong đó văn hóa dân gian là một dòng văn học lớn, đồ sộ nhất. Văn hóa
cung đình bao gồm: lăng tẩm, đền miếu, đình chùa, cung điện,…Văn hóa / học bác
học, trong đó có văn học viết (cũng thường gọi văn học thành văn) bao gồm ba bộ
phận: văn học viết bằng chữ Hán, văn học viết bằng chữ Nôm và văn học viết bằng
chữ Quốc ngữ; kiến trúc đền đài, nhà cửa của quan lại, món ăn của vua chúa,… Và
bộ phân lớn nhất trong văn hóa Việt Nam là văn học / hóa dân gian.
Trong bài viết này, chúng tôi trình bày văn hóa dân gian trên
cơ sở: Đi tìm ranh giới giữa dân gian và
phi dân gian trong văn hóa văn nghệ Việt Nam.
1/ Đặt vấn đề
Không phải dân gian thì là bác học, là cung đình. Điều đó
đã rõ. Thế, dân gian là sao ?
Theo lịch sử phát triển văn học, trong sách Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng
Hàm xuất bản năm 1943 gọi là văn chương
bình dân, văn chương truyền miệng. Nhưng ở mục ca dao, ông sử dụng thuật
ngữ dân gian trong định nghĩa về ca
dao: Ca dao (ca: hát; dao: bài hát không
có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, thường tả tính
tình, phong tục của người bình dân.1
Năm 1955, trong Tập san Nghiên cứu văn sử
địa, số 4/1955, bài báo “Người nông
dân Việt Nam trong truyền cổ tích” của Vũ Ngọc Phan, ông có sử dụng thuật
ngữ:… dân gian văn học…Năm 1957, nhóm
Lê Quý Đôn viết bộ giáo trình Lược thảo
lịch sử văn học Việt Nam (3 tập), các nhà nghiên cứu vẫn chưa sử dụng thuật
ngữ dân gian mà sử dụng văn chương truyền
miệng, văn chương bình dân như năm 1943, Dương Quảng Hàm đã sử dụng trong
sách Việt Nam văn học sử yếu. Sau đó vẫn chưa thấy giới nghiên cứu sử dụng
thuật ngữ dân gian trong các bài viết
và công trình nghiên cứu của mình.
Năm 1966, sau khi thành lập Hội văn nghệ dân gian Việt Nam,
đến năm 1979 Hội thành lập Ban văn hóa dân gian, đến năm 1983 đổi thành Viện
văn hóa dân gian, bấy giờ thuật ngữ dân gian dần được sử dụng càng lúc càng
nhiều. Đến nay, thuật ngữ dân gian trở thành quen thuộc với các nhà nghiên cứu
văn hóa, nghệ thuật, nghiên cứu folklore.
Dân
gian là tổ hợp từ được ghép bằng hai chữ Hán: dân + gian (tiếng Hán viết 民
間 ). Trong Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, định nghĩa dân gian là toàn dân, chung cả dân 1 . Trong Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học, định nghĩa dân gian
là đông đảo những người dân thường trong
xã hội. 2 Giải nghĩa như thế là
theo nghĩa chữ Hán còn theo nghĩa mang tính khoa học folklore thì chưa rõ, theo
đó, chúng ta chưa thấy có các loại hình dân gian được hiểu theo quan niệm khoa
học về dân gian như nội hàm của folklorre mà ngày nay chúng ta dùng trong
nghiên cứu văn hóa, nghệ thuật dân gian. Ở Việt Nam, thuật ngữ folklore đã được
sử dụng từ lâu và tùy mỗi thời kỳ lịch sử văn học mà hiểu thuật ngữ này. Bởi
nội hàm của folklore mang đa sắc thái ngữ nghĩa, gắn với các quan điểm chính
trị, học thuật của các thời kỳ lịch sử khác nhau. Có khi dịch ra tiếng Việt là văn học dân gian, văn nghệ dân gian và
nay chúng ta đang sử dụng văn hóa dân
gian.
Hiện
nay ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian tập trung vào các lĩnh vực:
Ngữ
văn dân gian bao gồm hai tiểu loại:
- Tự
sự dân gian có các thể loại: thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười,
ngụ ngôn, giai thoại dân gian, vè, sử thi, truyện thơ...
-
Trữ tình dân gian có các thể loại: ca dao, dân ca; và thành ngữ, tục ngữ, câu
đố dân gian.
Nghệ
thuật dân gian bao gồm hai tiểu loại loại:
- Nghệ thuật tạo hình dân gian,
có các thể loại: kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian...
-
Nghệ thuật biểu diễn dân gian có các thể loại: âm nhạc dân gian, múa dân gian,
sân khấu dân gian, trò chơi trò diễn...
Tri
thức dân gian bao gồm:
- Tri thức về
môi trường tự nhiên: địa lý, thời tiết, khí hậu...
-
Tri thức về con người: tức về bản thân
-
Tri thức về y học dân gian và dưỡng sinh dân gian
- Tri thức ứng xử xã hội: ứng xử cá nhân và ứng xử
cộng đồng
-
Tri thức sản xuất: kỹ thuật và công cụ sản xuất.
Tín
ngưỡng, phong tục và lễ hội
Các
lĩnh vực nghiên cứu nêu trên của văn hóa dân gian nảy sinh, tồn tại và phát
triển với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp, thể hiện tính chưa chia tách
giữa các bộ phận (ngữ văn, nghệ thuật, tri thức, tín ngưỡng phong tục...), giữa
hoạt động sáng tạo và hưởng thụ trong sinh hoạt văn hóa, giữa sáng tạo văn hóa
nghệ thuật và đời sống lao động của nhân dân. Để nghiên cứu văn hóa dân gian
với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp chúng ta cần phải có một quy phạm
nghiên cứu tổng hợp. 1
Tuy
thế trong quá trình nghiên cứu văn hóa, nghệ thuật cái gì là dân gian, cái gì là bác học trong các đề tài / công trình
nghệ thuật thì không phải ai cũng hiểu và kết luận giống nhau và tùy vào từng
thời điểm cụ thể thì không phải các nhà nghiên cứu đều thống nhất trên cùng một
quan điểm.
Thực
tế nghiên cứu văn hóa dân gian cho chúng ta nhận ra rằng ranh giới giữa dân
gian và phi dân gian đâu là thành tố tương đồng và dị biệt hay nói cách khác,
đâu là thành tố gặp gỡ giữa cái dân gian
và cái bác học.
Do
thực tiễn nghiên cứu văn hóa nghệ thuật dân gian cả hai chiều lịch đại và đồng
đại (lịch sử và cập nhật), ở đây chúng tôi tiếp cận trong hai lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật còn không ít ý kiến khác nhau: lĩnh vực nghệ thuật tạo hình và lĩnh vực nghệ
thuật ngữ văn.
2. Có hay không nghệ thuật dân gian
trong nghệ thuật tạo hình ?
Về
mặt lý luận thế nào là dân gian trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Từ trước
đến năm 1984 chưa gặp các nhà nghiên cứu đưa ra nhận định nào xác đáng. Từ năm
1984 về sau này, trên các phương tiện báo chí, tạp chí chuyên nghành, mỗi nhà
nghiên cứu có đưa ra nhận định riêng của mình khi nêu quan điểm về công trình
nghệ thuật tạo hình. GS.TS Kiều Thu Hoạch trong bài báo đăng trên Nguồn sáng dân gian lược thuật quá trình
đi tìm thành tố dân gian trong nghệ thuật tạo hình. Ông kể rằng năm 1984 trên
Tạp chí Văn hóa dân gian số 3, GS Đinh Gia Khánh đã công bố bài báo Vị trí của nghệ thuật tạo hình dân gian
trong văn hóa dân tộc và văn hóa dân gian. Bài báo nhằm xác định nghệ thuật
tạo hình như là thành tố của văn hóa dân gian. Theo GS Đinh Gia Khánh, ngày xưa
ý chí của giai cấp thống trị đã ảnh hưởng rất lớn vào nhiều công trình nghệ
thuật tạo hình, ở chỗ các tầng lớp thống trị đều muốn các nghệ nhân phải thực
hiện các công trình nghệ thuật theo ý đồ của mình. Tuy nhiên các nghệ nhân đều
xuất thân từ tầng lớp lao động và gắn bó với đời sống tinh thần của người dân,
với văn hóa văn nghệ dân gian. Từ đó hoặc là tự giác, hoặc là không tự giác,
các nghệ nhân vẫn đưa các yếu tố văn hóa nghệ thuật dân gian vào các công trình
mà họ phải thục hiện. Điều này đã gây cho vấn đề trở nên phức tạp khi các nhà
nghiên cứu muốn tách bạch đâu là cái dân gian trong nghệ thuật tạo hình.
Theo
tôi, có điều chắc chắn rằng các nghệ nhân dân gian không thể cưỡng lại ý chí
của nhà cầm quyền đương thời để tự giác thổi hồn dân gian vào trong các công
trình nghệ thuật như GS. Đinh Gia Khánh viết trong bài báo. Nếu công nhận sự
thổi hồn vào các công trình nghệ thuật tạo hình để công nhận cái dân gian (tức có yếu tố folk), thì
tại sao các công trình xây dựng: cung điện, đền đài, lăng tẩm, nhà ở của vua,
chúa, quan lại,… do nghệ nhân thực hiện và họ cũng thổi hồn vào thì sao không
gọi nghệ thuật tạo hình dân gian mà gọi là nghệ thuật cung đình ? Hoặc ẩm thực
của vua chúa do đầu bếp – là nghệ nhân – nấu nướng, họ cũng gia giảm mùi vị
theo phong cách của họ, thì sao vẫn gọi ẩm thực cung đình mà không là ẩm thực
dân gian? Điều thổi hồn vào công trình nghệ thuật tạo hình và chỉnh sữa mùi vị
ẩm thực là không thể (kể cả các công trình xây dựng thời nay).
Và
GS. Đinh Gia Khánh nêu ra giả thiết rằng: nghệ thuật tạo hình Việt Nam có hai
dòng đối lập nhau: một dòng có tính chất bác học, hàn lâm, một dòng có tính chất
dân gian. Như vậy làm thế nào để phân biết hai dòng ấy. Hoặc giả nghệ thuật dân
gian là chủ thể, thậm chí làm nên toàn bộ nghệ thuật tạo hình dân tộc ? GS.
Đinh Gia Khánh cho rằng đây cũng chính là vấn đề chưa được giải đáp.
Và
theo GS.TS. Kiều Thu Hoạch, cũng trong Tạp chí Văn hóa dân gian số 3 này Nguyễn
Tiến Cảnh với bài Phân định nghệ thuật
tạo hình dân gian Việt Nam, lại phủ nhận hoàn toàn quan niệm cho rằng, nghệ
thuật tạo hình cổ truyền Việt Nam là nghệ thuật dân gian. Theo ông, nghệ thuật tạo hình từ thời Lý, Trần qua Lê
tới Nguyễn với những cung điện, lầu các, với những chùa tháp đình làng, đền
miếu, lăng tẩm,…mà gắn liền với chúng là những tác phẩm của một dòng nghệ thuật
bác học. Và sau khi phân tích đình làng nửa cuối thế kỷ thứ XVIII là đỉnh cao
của lịch sử mỹ thuật Việt Nam, ông cho rằng Lấy
thuật ngữ điêu khắc dân gian để chỉ những điêu khắc của những đình làng trên
đây là không đúng. Ông khẳng định thêm:
Đến thời Nguyễn, với những long, li, quy, phượng; mai, lan, cúc, trúc; hoa,
điểu, tùng, lộc,…lại càng không thể là dân gian.
Điều
này ông Nguyễn Tiến Cảnh có lý khi các nghệ nhân khắc họa những biểu tượng mai, lan, cúc, trúc; hoa, điểu, tùng, lộc
hay long, li, quy, phượng là các biểu
tượng tượng trưng do vua chúa quy định, người dân thường không tự quy định
được. Đây không thể là biểu tượng tứ linh do người dân thường trong xã hội đặt
ra và dùng cho người dân. Tôi tán đồng với ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn
Tiến Cảnh.
Cũng
trong tạp chí này, theo GS.TS Kiều Thu Hoạch có các bài viết lại thống nhất
quan điểm chung đó là xác nhận tính dân gian của nghệ thuật tạo hình. Bài của
Tô Ngọc Thanh Nghệ thuật tạo hình dân
gian phải là một thành tố của folklore. Trịnh Cao Tưởng với bài Nghiên cứu kiến trúc trong lĩnh vực văn hóa
dân gian, Nguyễn Quân với bài Một vài
suy nghĩ về việc nghiên cứu nghệ thuật tạo hình dân gian trong folklore. Trong
số các tác giả này, có thể coi ý kiến của Trịnh Cao Tưởng như là một nhận xét tiêu biểu: Những
người làm công tác nghiên cứu mỹ thuật đã coi điêu khắc trang trí đình làng là
một dòng suối mát thuần khiết Việt Nam nhất, là giai đoạn nghệ thuật thắng thế
nhất của nghệ thuật tạo hình dân gian Việt Nam.
Năm
năm sau, trong tác phẩm Trên đường tìm
hiểu văn hóa dân gian 1 Trong
mục Nghệ thuật tạo hình dân gian, GS.
Đinh Gia Khánh đã tỏ ra đồng thuận với nhóm tác giả đã đăng bài liên quan trên
Tập san Văn hóa dân gian, số 3/1984, đồng thời coi nghệ thuật tạo hình là một
thành tố của folklore. Đây là nói về nghệ thuật tạo hình cổ truyền Việt Nam.
Như
thế qua thời gian dài thảo luận trên văn đàn học thuật vẫn chưa có kết luận
chính thức, vấn đề đang còn bàn thảo tiếp, do đó các nhà nghiên cứu ở thành phố
ta vẫn còn phân vân đâu là ranh giới giữa dân gian và bác học trong nghệ thuật
tạo hình. Vấn đề vẫn còn phải đi tìm lời
giải đáp cho loại hình nghệ thuật này.
Chúng
tôi đồng ý với tác giả Tô Ngọc Thanh trong bài viết Nghệ thuật tạo hình dân gian phải là một thành tố của folklore. Có
nghĩa là trong nghệ thuật tạo hình đó phải có folk (người dân), nếu không có
yếu tố folk thì không có thành tố dân gian trong nghệ thuật tạo hình. Theo đó,
từ năm 1984 đến nay không diễn ra các cuộc trao đổi học thuật, nhưng GS.TSKH.
Tô Ngọc Thanh đã có nhận định tiếp tục tìm kiếm sự gặp gỡ trong nghệ thuật tạo
hình mà trước hết phải có yếu tố người dân
(được hiểu là người dân làm ruộng - thông qua các lần tập huấn do Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam tổ chức tại nhiều Chi hội trên cả nước) và xem đấy là điểm gặp gỡ giữa nghệ thuật tạo hình dân gian
và nghệ thuật tạo hình bác học.
Chùa
chiền mang yếu tố tôn giáo, là văn hóa bác học nhưng rất gần với dân gian thông
qua tín ngưỡng của người dân gắn với chùa và hình tượng đức Phật gần gũi với
người dân.
Đình,
miếu là văn hóa bác học (nghệ thuật tạo hình), nhưng không gặp gỡ bàn tay nghệ
nhân thể hiện thành tố của người dân, và với tín ngưỡng dân gian thực hiện ngay
trong đình miếu thì đình, miếu không là đình miếu nữa (bởi không hàm chứa tín
ngưỡng dân gian trong đình miếu thì không còn là đình miếu, mà chỉ là di sản
văn hóa vật thể - cái có thể sờ mó được),…Theo tôi, tìm sự gặp gỡ trong nghệ
thuật tạo hình là tìm độ đậm nhạt của tín ngưỡng dân gian, nghệ thuật tạo hình
dân gian theo nguyên lý lượng – chất.
Gần
đây (2016), GS. TSKH. Tô Nhọc Thanh đã lưu ý các Chi hội trực thuộc Hội văn
nghệ dân gian Việt Nam khi đăng ký đề cương công trình dự Tài trợ, Giải thưởng
và Trại viết của Hội lưu ý các nội dung sau đây sẽ không được Hội đồng xét duyệt chấp nhận:
-
Những tư liệu về lịch sử miền đất
-
Những tư liệu về quá trình thành lập cộng đồng
-
Tiểu sử và sự nghiệp của danh nhân
-
Các tư liệu chữ Hán
-
Các sáng tác có tác giả
-
Các tư liệu bảo tồn bảo tàng về di sản vật thể.
3. Có hay không địa danh dân gian
trong địa danh ?
3.1. Dân gian trong
nghệ thuật ngữ văn
Nhiều thập niên trong thế kỷ XX,
khoa nghiên cứu văn học / hóa dân gian của Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền khoa học
Liên xô (cũ). Nhưng từ năm 1986 trở đi, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới
thì tư duy và phương pháp lý luận chuyên ngành đã bộc lộ những bất cập. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học quá trình
đổi mới tư duy giúp cho chúng ta nhận thức được những chậm trễ của khoa học xã
hội, sự lạc hậu trong công tác lý luận 1
. Dân gian trong nghệ thuật ngôn từ đến nay chúng ta vẫn còn hiểu rằng Văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền
miệng của nhân dân lao động hoặc Văn
học dân gian phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất và Văn học dân gian…vẫn tồn tại cùng với hoạt động sản xuất vật chất của nhân dân lao
động 1. Theo đó đến nay vẫn còn vận dụng định
nghĩa dân gian như vừa nêu. Vẫn quan niệm người sáng tác ra các tác phẩm dân
gian là nhân dân lao động / quần chúng lao động và phương thức sáng tác là
truyền miệng. Trong thực tế có phải như vậy không, chúng ta còn chờ ở các nhà
nghiên cứu.
Ở đây, chúng tôi muốn thảo luận xem:
Có địa danh dân gian hay không trong địa danh.
+ Địa danh dân gian, không gặp định nghĩa trong các từ
điển. Nhưng xét thực tiến thì địa danh dân gian là địa danh do người dân (folk)
đặt ra. Địa danh dân gian khác với địa danh do nhà nước đặt ra để quản lý, hoặc
quyết định thừa nhận địa danh có sẵn từ địa danh dân gian. (dân gian hiểu theo
các Từ điển định nghĩa là ở chỗ người dân,
là đông đảo những người dân thường trong
xã hội).
Đứng từ góc độ
địa danh mà xét thì trong địa danh nói chung có địa danh dân gian. Theo các
định nghĩa trên thì địa danh nào do người
dân đặt ra để phân biệt, để nhận biết đối tượng, để ứng xử thích hợp thì
đấy là địa danh dân gian. Điều này khác với địa danh do nhà cầm quyền định danh
đối tượng để quản lý và cũng để phân biệt giữa các tên gọi. Địa danh do nhà
nước đặt ra thường xuất phát từ chiếu, chỉ, dụ,…(thời xưa). Nghị quyết, Nghị
định, Quyết định và được nhà nước chính thức công nhận. Qua các thời kỳ lịch sử
phát triển, chúng ta nhận ra rằng địa danh do nhà nước định danh được ghi trên
văn bản bằng văn tự, thứ nhất: viết bằng chữ Hán, thứ hai: chữ Nôm và nay là
chữ Quốc ngữ (chưa kể một số địa danh ghi bằng tiếng nước ngoài). Và vì địa
danh do người dân đặt ra nên phạm vi sử dụng của địa danh dân gian không rộng
như địa danh nhà nước, phần lớn địa danh lưu truyền bằng truyền miệng trong
phạm vi xóm, làng, xã. Một số địa danh dân gian ảnh hưởng trong phạm vị rộng
lớn như tên của các con sông, ngọn núi (núi Phước Tường, sông Cẩm Lệ, sông Cu
Đê, Non Nước,…). Có điều, chắc chắn rằng địa danh dân gian được người dân định
danh khi văn tự chưa có (chỉ lưu truyền bằng truyền miệng) và về sau, khi có
văn tự, địa danh dân gian được ghi thành văn tự, thành chữ, để nhớ, để biết.
Ở Đà Nẵng phần
nhiều các làng, xã được thành lập gắn liền với địa danh được ghi bằng văn tự.
Bởi khi vào Nam định cư có thể một mặt tiếp tục gọi tên theo cách gọi của người
tiền trú (Đà Sơn, Đà Ly, Câu / Cu Đê, Trà trong Trà Bồng, Trà Na, Trà Lộ, Trà
Tế,…), mặt khác đặt tên mới để nhận biết, phân biệt. Điều này thực tế đã diễn
ra ở Đà Nẵng, Quảng Nam
trước năm 1471 (thời Lê), hoặc xa hơn, từ thời nhà Hồ 1402, hoặc xa thêm nữa có
thể có địa danh được người dân Việt đến xứ sở Chămpa và định danh vào năm 1306.
(hiện tượng như thế từ Quảng Bình trở vào là không hiếm).
Như thế phải thừa
nhận rằng trong địa danh chung có địa danh dân gian.
Khi đến đây lập
làng, nhiều gia phả các dòng họ tại Quảng Nam , Đà Nẵng ghi rằng: tộc họ A, B
hoặc C đến đây, thấy núi non hùng vĩ, sông ngòi thuận lợi, bèn dừng chân ở lại
cùng nhau khai phá và đặt tên làng là ….. quy dân lập ấp, khai cơ lập nghiệp
đời đời. Sau đó để phân biệt, để nhận biết và ứng xử thích hợp, người dân lần
lượt định danh cho các đối tượng cần định danh trong đó có nhiều địa danh được
định danh bằng thổ ngữ. Thì đấy là địa danh dân gian. Không biết nguồn gốc của
địa danh, ai đặt và đặt từ bao giờ, nhưng có điều chắc chắn biết được là người
dân (folk) ở đó lần lượt đặt tên cho con suối, ao, hồ, bến, bãi, gò, đồi,… của
họ.
Khi nhà nước hình
thành tại xứ Quảng, địa danh được nhà nước đặt tên, bấy giờ địa danh đã có
nguồn gốc. Để quản lý được tốt và sát thực, có địa danh trong dân gian không rõ
nguồn gốc, ai đặt và đặt từ bao giờ được nhà nước tiếp tục sử dụng bằng cách ra
quyết định công nhận, ghi ngày tháng rõ ràng. (Chợ Cồn, chợ Cẩm Lệ, Đà Nẵng,
sông Hàn,…là cách tiếp tục sử dụng địa danh dân gian trong quản lý). Các sách
địa danh của các nhà nghiên cứu, học giả: Lê Trung Hoa, Nguyễn Văn Âu, Nguyễn
Kiết Tường,… đều có chứa một lượng ngữ văn dân gian nhất định, nhưng họ nhìn
ngữ văn này dưới góc nhìn ngôn ngữ học, và gọi chúng là địa danh thuần Việt (khảo sát trong phần ngữ nguyên của địa danh), nên chúng ta dễ bị ngộ nhận rằng đã là địa
danh thì không phải là cái của dân gian mà là cái của bác học.
Như vậy có thể
nói trong địa danh nói chung có địa danh dân gian, một bộ phận quan trọng trong
dời sống người dân qua các thời kỳ lịch sử. Địa danh dân gian cũng là lớp từ
vựng toàn dân, nhìn từ góc nhìn ngôn ngữ học; đồng thời, địa danh dân gian cũng
là ngữ văn dân gian nhìn từ góc nhìn văn hóa dân gian.
Vậy đâu là đặc
điểm của địa danh dân gian ?
3.2. Đặc điểm của địa danh dân gian
1. Thể hiện bằng
ngôn ngữ thuần Việt.
Lớp địa danh này
xuất phát từ lời ăn tiếng nói của người dân là văn hóa của dân (folk). Địa danh
do họ đặt ra, gắn với sinh hoạt thường ngày của họ, mà lớp từ này là thuần
Việt, địa danh của các dân tộc miền núi cũng là dân gian. Có nhiều địa danh do
người dân định danh nhưng không rõ nét nghĩa là gì: gò Đồ, gò Cập Ứng, cồn De, cồn Đu, khe Răm, Đà Ly, Phần Lăng,…những
địa danh này có thể vay mượn của người tiền trú tại xứ Quảng Nam xưa.
Ngoài
ra có một lớp từ Hán – Việt được dùng định danh sự vật , hiện tượng, lớp từ này
mang nét nghĩa làm phong phú vùng đất, con người ở đó, được người dân sử dụng
để định danh, trước khi nhà nước tiếp tục sử dụng bằng văn bản cụ thể. Những
địa danh gợi cho người dân hiểu ý nghĩa tốt đẹp, gởi vào đấy niềm hy vọng lâu
dài của cộng đồng, có nhiều: Thúy / Túy Loan, Đồng Môn, Đông Phước, Thái Lai,
Phước Thuận, Phong Lệ, Cẩm Lệ, Cẩm Giang Lệ Thủy, …trước khi có chính quyền
làng xã tại xứ Quảng, người dân nơi đây đã định danh sự vật nơi họ sinh sống
rồi. Lớp từ này là Hán – Việt nhưng do người dân tại địa phương đó đặt tên nên
trước hết là địa danh dân gian.
2.
Địa danh dân gian thường mang tính tượng hình
Người
dân ta ở xứ Quảng xưa, khi đặt những bước chân đầu tiên đến vùng đất mà con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng phải
kinh thì không khỏi giật mình. Họ gặp người tiền trú, có thể ban đầu là cư
dân văn hóa Sa Huỳnh, về sau có tộc người Chàm của cư dân Đa Đảo vào trước, để
nhận biết và phân biệt sự vật trong môi trường tự nhiên, hẳn họ đã phải định
danh, đặt tên cho sông núi, đồi, gò, đồng, bãi,…Và để định danh, họ quan sát
thấy chung quanh trong tự nhiên có hình dáng, màu sắc, cao thấp rộng hẹp thế
nào,… họ thường lấy cái cụ thể, cái đặc điểm riêng có của đối tượng để định
danh đối tượng. Nhìn thấy hình sông, thế núi màu sắc thế nào thì đặt tên địa
danh theo đặc điểm đó. Nhiều địa danh như thế xuất hiện: đồi Chè, đồi Cù Lao,
gò Trọc, gò Vàng, hố Tre, đá Đen, đá Bàn, sông Cổ Cò,…Hoặc xứ đất, xứ ruộng có:
cây Trao, cây Cốc, xứ Bàu Da,…Cho nên địa danh dân gian phần nhiều mang sắc
thái tượng hình.
3.
Địa danh dân gian không ổn định về mặt ngôn ngữ
Do
xuất phát từ tiếng nói địa phương, trong đó có một bộ phận phương ngữ, thổ ngữ
tại các làng, xóm, có thể người dân lấy phương ngôn, hoặc thổ ngữ đó định danh
cho sự vật tại vùng đất mình cư trú, nên đôi khi do phát âm, mà mỗi làng có mỗi
cách gọi tên trên cùng một đối tượng. Ở xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên có một ngọn
núi trong dân gian gọi núi Ấn những
cũng ngọn núi ấy, có nơi người dân gọi hòn
Quắp. Là bãi đá ở xã Tam Hải, huyện Núi Thành, có một hòn núi thấp, nằm sát
biển, dài khoảng 2km, cao 40m, trên đỉnh bằng phẳng, rộng khoảng 20 ha, phủ đầy
một loại cỏ thân cứng và những cây dại như chà là, sim, mua. Mặt phía đông và
đông nam vách đá cao dựng đứng màu đen như than. Bãi đá đen như than, bề mặt có
nơi phẳng như mặt bàn, nên gọi Bàn Than,
nhưng có nơi người dân gọi Bằng Than.
Cũng vậy, là cù lao thuộc thành phố Hội An, người dân là các lái chèo ghe bầu
đi cạnh cù lao thấy có màu xanh gọi Lao
Xanh, nhưng người dân trong đất liền nhìn ra biển lại gọi Cù Lao Chàm còn người dân có Hán học,
nhìn cù lao lại gọi Chiêm Bất Lao (do
nguyên trước đây là đất của người Chàm). Rồi Bồng Miêu / Bông Miêu, sông Kôn / Trầu, ngã ba Hà Tân / ngã Ba Bến,…cũng
thế.
4.
Sự gặp gỡ giữa địa danh dân gian và địa danh do nhà nước định danh
Ngay
từ khi con người xuất hiện trên trái đất và có tiếng nói là đã định danh cho
các sự vật và hiện tượng chung quanh để nhận biết và phân biệt. Thời ấy, con
người chưa có chữ viết và chưa có nhà nước. Theo đó, có thể nói rằng địa danh dân gian có trước địa danh do nhà
nước định danh và rõ ràng theo chiều kích lịch sử và cập nhật thì địa danh,
địa danh dân gian có trước địa danh học. Nếu
không có địa danh sẽ không có ngành địa danh học. Ngành địa danh học ra đời
ở Châu Âu vào thế kỷ thứ XIX, nhưng địa danh đã xuất hiện rất sớm. Ở xứ Quảng
địa danh do người dân đến đây đặt ra có từ thế kỷ thứ XV hoặc trước đó, thời ấy
làm gì có ngành địa danh học xuất hiện. Nói dông dài như vậy để tìm điểm gặp gỡ
nhau giữa dân gian và bác học trong địa danh.
Khi
nhà nước xuất hiện, để quản lý toàn diện, nhà nước định danh sự vật và hiện
tượng cần định danh để quản lý. Điểm gặp gỡ giữa địa danh dân gian và địa danh
do nhà nước định danh thể hiện ở chỗ:
- Một mặt, nhà
nước tiếp tục sử dụng địa danh đã có sẵn trong dân gian để chính thức hóa địa
danh bằng văn bản như chiếu chỉ, …nghị quyết, quyết định,…
- Mặt khác, nhà
nước định danh mới các sự vật và hiện tượng.
Mục đích của nhà
nước là để quản lý, còn mục đích của dân gian là để nhận biết, phân biệt, từ đó
có hiện tượng cùng một địa danh nhưng có nhiều tên gọi khác nhau (như nói ở mục
3).
Sự đan xen gặp gỡ
nhau giữa dân gian và phi dân gian trong địa danh là vào thời điểm chuyển tiếp
này và vì ý nghĩa của địa danh.
Ở thành phố Đà
Nẵng, không biết từ thời điểm nào dân gian gọi sông Hàn, rồi trải qua các thời kỳ lịch sử nay vẫn gọi sông Hàn.
Chúng ta sẽ không tìm thấy một văn bản nào của nhà nước qua các thời kỳ có văn
bản quyết định đặt tên con sông chảy giữa lòng thành phố Đà Nẵng là sông Hàn.
Tương tự, sẽ không tìm thấy quyết định đặt tên cho sông Cẩm Lệ, sông Cu Đê,
sông Thu Bồn (theo truyền thuyết), sông Câu Lâu (theo truyền thuyết),… ngã ba
Giao Thủy, ngã ba Cây / Cai lan, ngã ba chuồn chó…và còn rất nhiều địa danh như
thế nữa, đặc biệt toàn bộ địa danh chỉ xóm là địa danh dân gian, đến nay vẫn là
địa danh dân gian như xóm Hóa Sơn, Cẩm Bình, Thủy Lục, xóm chuối, xóm mía, xóm
chợ heo,… (mặc dầu nay đã biến đổi), hoặc khu chuồn bò, hay địa danh gò Theo,
Đà Ly, gò Cồn (nay biến đổi thành chợ Cồn) là địa danh dân gian (mới đây nhà
nước đã công nhận chợ Chợ Cồn). Trong một số trường hợp, địa danh làng trước
hết là địa danh dân gian (theo gia phả , theo hồi cố của người làng).
Theo tôi, điểm gặp gỡ giữa dân gian và phi dân gian
trong lĩnh vực địa danh là ở chỗ nhà nước tiếp tục sử dụng địa danh của dân
gian.
Tài liệu tham khảo
1. Dương Quảng Hàm, Việt
Nam
văn học sử yếu, Trung tâm học liệu SG in lại lần thứ 10, 1968.
2. Đào Duy Anh,
Từ điển Hán Việt, SG. 1958.
3. Hoàng Phê (chủ
biên), Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hn. 2010.
4. tapchicongsan.org.vn
5. Lê Trung Hoa, Địa
danh học Việt Nam ,
NXB. KHXH, 2006.
6. Lê Trung Hoa, Nguyên
tác và phương pháp nghiên cứu địa danh (địa danh thành phố Hồ Chí Minh),
NXB. KHXH, 2002.
1 Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử
yếu, Trung tâm học liệu SG in lại lần thứ 10, 1968, tr.8.
1 Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt, SG. 1958, tr. 325.
2 Hoàng Phê (chủ biên), Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản Đà Nẵng,
Hn. 2010, tr. 331.
1 tapchicongsan.org.vn
1 Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Đinh Gia Khánh, NXB. KHXH,
Hn, 1989.
1 Khoa học xã hội và nhân văn mười năm đổi mới và phát triển, Phạm Tất Dong (chủ biên) NXB. KHXH, Hn. 1997.
(Dẫn lại GS. TS. Kiều Thu Hoạch trong Nguồn
sáng dân gian số 3/2015.
1 Giáo trình Văn học dân gian . NXB. ĐH & THCN,
Hn. 1972.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét