Dấu
ấn văn hóa Chăm trên đất Quảng Bình
Trần Hoàng
1.
Quảng Bình thời sơ sử thuộc nước Văn Lang, sau đó là Âu Lạc. Nhà Hán xâm
lược nước ta đặt vùng đất này thành quận Nhật Nam
(quận kéo dài đến tỉnh Quảng Nam ).
Thế kỷ thứ II, nước Lâm Ấp của Khu Liên ra đời (sau này là Bắc Chiêm Thành).
Lâm Ấp còn có tên khác là nước Hoàn Vương, phía Bắc kéo dài đến đèo Ngang. Thời
kỳ thuộc Lâm Ấp, Quảng Bình có 2 châu: Địa
Lý (ngày nay là 2 huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh), Bố Chính (Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa ngày nay).
Năm 1069, nhà Lý cử binh tướng tiến
công xuống phía Nam
đánh nhau với quân Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Củ bị bắt, phải cắt 3 châu Địa
Lý, Bố Chính, Ma Linh (từ Bắc Quảng Bình đến Gio Linh- Quảng Trị) để được thả
về. Quảng Bình trở thành một bộ phận của nước Đại Việt từ đây.
Như vậy từ năm 137 đến năm 1069, trong
vòng 932 năm, Quảng Bình từng là nơi cư trú của người Chăm và một số các dân
tộc thiểu số khác… Từ thế kỷ thứ 11 trở về sau, người Chăm rút dần vào các tỉnh
miền trong. Dù vậy, văn hóa Chăm đây đó vẫn còn ghi những dấu ấn trên đất Quảng
Bình đáng cho chúng ta cần tìm hiểu, và trân trọng.
2.
Trước hết, dấu ấn văn hóa Chăm nằm ngay trong một số sinh hoạt, một số
phong tục của cư dân các làng xã. Nông dân Quảng Bình một năm cũng làm hai vụ
lúa chính. Vụ tháng 5 gọi là vụ Chiêm,
lúa Chiêm. Vụ Chiêm được xem là vụ lúa do người Chăm tạo ra.
Trong các bữa ăn hàng ngày, nhất là vào mùa Đông mưa rét, món mắm là món được nhiều người ưa
thích. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, mắm
vốn có nguồn gốc từ văn hóa ẩm thực Chiêm Thành. Món mắm Quảng Bình rất đa
dạng, nguyên liệu bao gồm cả thủy hải sản, cả dưa cà… Ví như: mắm cá hố, cá
thu, cá bè, mắm ruốc, mắm còng, mắm cáy, mắm tôm sú, mắm cà, mắm dưa, mắm nhỏ
v.v…
Tục
thờ cá voi, dường như chỉ có ở miền biển Quảng Bình trở vào. Phải chăng tín
ngưỡng này cũng có nguồn gốc từ văn hóa Chăm? Hiện nay ở Quảng Bình có các làng
xã sau đây còn miếu thờ cá voi: Cảnh
Dương (Quảng Trạch) 2 miếu thờ mang tên Miếu Ông, Miếu Bà; Thanh Hà (xã Thanh Trạch- Bố Trạch) đền
thờ tọa lạc gần cửa sông Gianh; Sa Động
(Bảo Ninh- TP Đồng Hới) đền thờ được gọi là Lăng Ông; Quảng Phú đền mới được phục chế lại mang tên là Miếu Ông. Tại các đền miếu thờ Đức Ông, hàng
năm, dân các làng xã thường tổ chức tế cúng, hát chèo cạn, bơi trải… Một số bộ
xương cá voi còn được lưu giữ ở Cảnh Dương, các nơi khác thì bị bom đạn hủy
hoại gần hết.
Tục lệ coi trọng sinh thực khí trong
tín ngưỡng phồn thực cũng là một tục lệ rất đáng lưu ý. Hàng năm 4 làng: Động Hải, Hà Thôn, Phú Đức, An Ba (4
làng nằm bên dòng sông Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới) đều có tổ chức bơi trải.
Trên các thuyền có gắn hình Muống- Nhọn,
hai hình ảnh biểu trưng của sinh thực khí, của âm dương, thiên- địa, nhân (2
làng đầu mỗi làng 1 cặp, 2 làng sau ghép lại thành 1 cặp- tất cả là 3 cặp
Muống- Nhọn). Theo hai nhà nghiên cứu Nguyễn Tú và Văn Lợi: tục gắn hình tượng Muống- Nhọn trên các thuyền bơi của các
làng vừa nói trên là tiếp thu, kế thừa tín ngưỡng phồn thực của cư dân Chăm Pa
trước đây. Tục lệ này ngày nay còn thấy trong sinh hoạt văn hóa của người Chăm
ở Phan Thiết (xem: Địa chí văn hóa miền
biển Quảng Bình- trang 194-196).
Ở nhiều thôn xã của Quảng Bình hiện
thời bà con vẫn còn dùng nước giếng, trong đó có một ít cái giếng xây theo hình
vuông, ví như giếng nước chính của làng Phúc
Kiều (một làng cổ của xã Quảng Tùng, huyện Quảng Trạch). Giếng hình vuông
được xem là kiểu giếng của dân tộc Chăm.
Dấu ấn và di sản văn hóa Chăm trên đất
Quảng Bình được các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa tìm thấy trên một số di
vật, thành quách. Năm 1923, tượng Bồ tát
Quan thế âm Bodhisattva Avalokitesvara bằng đồng nặng 35kg do Henry de
Pircy phát hiện ở Đại Hữu đã khẳng định sự hiện diện của Phật giáo trong văn
hóa Chăm trên đất Quảng Bình (Tượng này hiện được trưng bày tại Bảo tàng lịch
sử thành phố Hồ Chí Minh). Đặc biệt thành Khu
Túc, một công trình thành quách phía Bắc của người Chăm đã được mô tả khá
kỹ trong một số tập sách xuất bản từ trước năm 1945. Sách “Du lịch Quảng Bình” của học giả Nguyễn Kinh Chi, trong mục “Thành
Kẻ Hạ” viết:
“Ở đó có di tích một cái thành bằng
đất, hình vuông mỗi bề ước 200m, thành có trổ 3 cái cổng; ở trong đất có lẫn
lộn những hòn gạch lớn, xung quanh thành có dấu vết sông hào, nhưng nay đã làm
thành ruộng. Dân ở đó thường kêu là thành Lồi- tức là Chiêm Thành. Cũng có kẻ
gọi là thành Kẻ Hạ- nghĩa là thành ở làng Cao Lao Hạ. Cứ theo các nhà khảo cổ
thời có lẽ là thành Chăm thật vì những hòn gạch thấy ở đó giống như gạch xây ở
các di tích Chiêm Thành còn lại bây giờ”.
Về thành Khu Túc, nhà giáo Lương Duy
Tâm ghi rõ trong sách “Địa lý- Lịch
sử Quảng Bình”: Thành xây vào khoảng thế kỷ thứ IV đời vua Chiêm Phạm Hồ
Đạt. “Thành xây giữa 2 con sông Lô Dung (sông Son) và Thọ Linh (sông Gianh),
chu vi 6 dặm 170 bộ, xây gạch cao 2 trượng, trên lại có tường cao trên 1
trượng, có mở nhiều lỗ vuông… thành có 13 cửa, tất cả cung điện đều hướng về
phía Nam. Chung quanh thành có hơn 21.000 ngôi nhà, dân chúng ở chung quanh”
(Những dòng trên đây tác giả chép từ sach Thủy
Kinh chú). Nhà giáo Lương Duy Tâm cũng đã dẫn cả lời giám mục Cadie mô tả thành Lồi- Kẻ Hạ “vuông mỗi bề chừng 200m, lũy
đất dày chừng 5m ở chân, 3m trên mặt chừng 2m (Sđd trang 127-128). Thành Khu Túc- Kẻ Hạ nay thuộc làng Cao Lao
Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch.
Dấu vết thành lũy Chăm Pa còn
được thấy ở dải Đèo Ngang. Trước đây người ta vẫn thấy trên sườn núi có dấu vết
của một thành đá cũ, tương truyền là Thành Phạm Văn (một vị vua của người
Chăm), tức thành Hoàn Vương. Ngay cả thành Uẩn Ảo (thành nhà Ngò), một thành cổ
ở Lệ Thủy, các cụ già thuở trước cũng gọi là Thành Lồi (thành này ngày nay đã
bị hủy hoại theo năm tháng).
Động Phong Nha cũng từng ghi dấu ấn của người Chăm một thời họ đến đây.Dấu
tích Bàn thờ họ lập nên, chữ ký của họ khắc ghi trên vách đá vẫn còn trong hang
động.
3.
Trên đây chúng tôi lược ghi lại một đôi nét về dấu ấn của văn hóa Chăm trên đất
Quảng Bình. Những tư liệu mà chúng tôi thu thập được qua các chuyến điền dã,
qua các tư liệu sách báo, chắc chắn còn rất ít ỏi và còn những thiếu sót này nọ. Mong được độc giả
thông cảm và chỉ giáo cho.
Tư liệu tham khảo
1.
Du lịch Quảng Bình (Bản chép tay- Thư viện Quảng
Bình).
2.
Địa lý- Lịch sử Quảng Bình- Lương Duy Tâm
(1998)- Bảo tàng Tổng hợp Quảng Bình xuất bản.
3.
Địa chí văn hóa miền biển Quảng Bình- Văn Lợi
(cb)- 2001- Nxb Văn hóa Thông tin.
4.
Sổ tay địa danh du lịch các tỉnh Trung Trung Bộ (Nhiều tác giả- Phần Quảng Bình do Trần Hoàng viết).
5.
Trên đường tiếp cận một vùng văn hóa- Trần
Hoàng- 1996- Nxb Văn hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét