Phan
Thế Tập
Câu đối dân gian
Câu
đối là một thể văn gồm hai vế câu có số lượng từ bằng nhau và đối chọi nhau cả
về lời lẫn ý. Thể văn này thường sử dụng dưới hai hình thức làm một câu đối hoàn chỉnh hai vế (câu đối
tết, câu đối tặng bạn,…) hoặc ra câu đối (ra một vế cho người khác đối lại). Hình
thức thể văn này có quy mô nhỏ, thời nho học, không quy định cho sỹ tử, sinh đồ
dùng làm môn thi trong khoa cử ngày xưa, nhưng thể loại đối được dùng nhiều trong
giao tiếp của cả giới nho học lẫn giới bình dân, mục đích để thờ, để đón tết,
để mừng nhà mới, để bày tỏ ý chí, để tranh đua thể hiện trí thông minh, để
phúng điếu, để đề ở cổng đình, để đề trong các nhà thờ tộc, đề bia chùa, miếu
mạo, phong cảnh, trang trí nội thất các tư gia,... Câu đối nếu đem chạm vào gỗ,
vải, giấy viết dài thành hai vế để thờ, hoặc treo lên hai cây cột nhà thành cặp
song song đối xứng nhau, thì gọi là liễn đối.
Đối
là từ Hán, cũng gọi là doanh liên hay doanh thiếp. Doanh là cột, buộc; thiếp là
mảnh giấy có viết chữ; liên là đối nhau: làm sao cho ý, chữ, luật bằng trắc cân
xứng nhau. Bài viết này gọi câu đối dân
gian, bởi những câu trích dẫn ra đây chưa trở thành văn học mà chỉ tồn tại
trong dân gian vùng quê đất Quảng, không có tác giả. Những câu có tác giả như
Tú Xương, Nguyễn Công Trứ,… được dùng minh họa, làm rõ thêm cái hay, cái đẹp
của thể văn này.
Có
thể chia ra làm ba loại câu đối chính:
Câu
đối vặt hay tiểu đối; mỗi câu chỉ có ba bốn chữ, ví dụ:
Rào thơm kín mít
Bưng bí bể
bầu
Hay:
Trạch Trạch Tư Can (Nhà của Tư Can)
Chân Chân
Cửu Tý (Ông Cửu Tý cha Bùi Giáng đang đi nhà mới ông Tư Can)
Hay:
Ô, quạ tha gà
Xà, rắn bắt
ngóe (dân gian)
Có
câu năm chữ, như:
Minh quân chuộng hiền tài
Bạo chúa
dụng trảo nha
Có
câu sáu chữ:
Đường nhiều làm bánh ít ngọt
Nước chè đậm
đổ từng ve
Câu thơ đối là loại câu đối thông dụng
nhất, phổ biến nhất, thường là những câu đối làm theo thể thơ ngũ ngôn hay thất
ngôn, theo đường luật, đối bằng và đối trắc, thông thường là hai câu thực hoặc
hai câu luận trong thơ đường. Ví dụ: hai câu đối đề Hồ Hoàn Kiếm (khuyết danh).
“Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy” (Gươm quý ngàn vàng, nước xanh lưu giữ)
“Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (Tấm lòng trong trắng, ngọc hồ in)
Các
nhà thơ lớn thời nho học đều có những câu đối để đời, như Tú Xương:
“Thiên
hạ xác rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế lại
bôi vôi ”
Hay
Nguyễn Công Trứ:
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh
chưng xanh”
Có
những câu đối, theo thơ Đường luật thất ngôn, tác giả muốn để cho người đọc tự
tìm cho ra ý nghĩa quan trọng nhất của cấu đối, chứ không viết hẳn ra, và người
đọc sau khi ngẫm ra dụng ý ẩn dụ của tác giả thì rất khoái chí và rất phục tài.
Ví dụ trường hợp hai câu đối đề trên bia mộ tiền hiền tộc Trần ở Thanh Châu,
huyện Duy xuyên:
Thiên trường bến cũ sau nhà Lý
Thanh vức bờ nay trước
cửa Lê
Đó là câu đối của ông Phan Ngọc Thám (Ông
Cửu Tung) ở Cổ Tháp, Duy xuyên, được khắc trên bia mộ tiền hiền tộc Trần ở
Thanh Châu (Thanh vức bờ nay...).
Có
những câu đối độc đáo mà vế đối đưa ra cả trăm năm sau vẫn chưa có câu đối lại
hoàn chỉnh, sắc sảo, dí dỏm tương xứng:
Ví
dụ: Con
cá đối nằm trong cối đá
Đáp lại: Mèo đuôi cụt nằm muốt đuôi kèo
Hay Chim
vàng lông đậu tại vồng lan
Thì
không thể nào sắc sảo độc đáo bằng (cá đối → cối đá)
Hay
như hai câu thất ngôn ông Cửu Tý (Bùi Thuyên) ra cho ông Chánh Bảy (Bùi Quán -
chú ruột ông Cửu Tý)
Chánh
quán ở đâu, đâu chánh quán?
Vòng
tay thưa lại với Bùi Thuyên.
Còn
như một câu đối vui thời hiện đại cũng chưa có câu đáp tương xứng:
Đến
Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi?
Cũng
có người đáp lại.
Lên
đèo Le, thấy đá, đừng leo!
Nếu
không khiên cưỡng thì cũng không sắc sảo bằng vế đối.
Câu
đối, hoành phi là những tác phẩm cở nhỏ nhất, đòi hỏi văn phải cô đọng, ý phải
thâm sâu, câu đối nào càng thể hiện được tính nhân văn thấm đậm thì được phổ
biến rộng rãi, truyền tụng lâu dài. Những câu đối nổi tiếng thường hình thành
những giai thoại hoặc thể hiện tính cách của tác giả. Có hai câu đối, đặc biệt
của hai vị Thượng quan đại khoa bảng thời Tây Sơn - Nguyễn Ánh mà hơn hai trăm
năm nay vẫn được truyền tụng trên mọi miền đất nước đó là:
Đối: Ai
công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai
Đáp: Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế,
thế thời phải thế
Người
đưa ra về đối là Đặng Trần Thường, sinh năm 1759 tại Chương Mỹ, Hà Tây. Ông đậu
sinh đồ thời Lê Mạt, có quen biết với Ngô Thời Nhậm. Ông từ chối hợp tác với
Tây Sơn. Năm 1793 ông vượt biển vào Nam giúp Nguyễn Ánh đánh lại Tây Sơn, lập
nhiều công trạng và được cử làm Trấn thủ Bắc Thành (cùng với Nguyễn Văn Thành).
Khi các quan chức cũ của Triều Lê có cọng tác với Tây Sơn bị đưa ra xét xử,
trong đó có Ngô Thời Nhậm, thường nhớ thù siêng ra câu đối, không ngờ Ngô Thời
Nhậm đối lại cứng cỏi, sắc sảo, bị Thường sai lính đánh đến chết trước văn miếu
Hà Nội.
Câu
đối của Đặng Trần Thường và Ngô Thời Nhậm có 13 từ, thuộc loại câu đối phú,
loại nầy mỗi vế có thể dài từ 9, 10... đến 50, 60 từ, có vế chia ra làm 2, 3
đoạn.
Ví
dụ câu đối cụ Tú Quỳ làm để 12 bà vợ góa thờ 12 ông chồng cùng bị chết trôi
trong một trận lụt:
Tưởng khi bóng chích gương loan, một thảm
một sầu mười bức tức (1 + 1 + 10
= 12)
Nhớ thuở bẻ mai chiết quế, ba chìm
ba nổi sáu lênh đênh
(3 + 3 + 6 = 12)
Hay,
như câu đối của Tiến sỹ Phạm Liệu (khôi nguyên ngũ phụng tề phi) đề tại nhà thờ
Tộc Phan, Cổ Tháp, huyện Duy xuyên (Bên ngoại Phạm Liệu) chỉ với 12 từ mỗi vế
đối đã nói lên được lai lịch của một dòng họ từ lúc theo chúa Nguyễn vào Bàn Lãnh,
Đông Châu (Điện Bàn) đến khi lên lập nghiệp tại Cổ Tháp, huyện Duy Xuyên.
“Ngoại cũng liệt tôn phong, Cổ Tháp ức niên
sùng thế thế
Tiền lai tư tổ trạch, Đông Châu nhất
mạch tiếp uyên uyên”
Về
sau, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, con cháu đời thứ 11 của dòng họ này
phục hồi nhà thờ tộc Phan Cổ Tháp, đều có phục chế các câu đối cũ, trong đó có
câu của Thượng thư Phan Liệu. Ngoài ra, có thêm những câu đối, đọc lên thấy
được cuộc di cư vĩ đại của dân tộc Việt Nam
từ Bắc vào Nam .
Nghệ Tĩnh cố quận, tiên tổ khai nghiệp, tài
đức vuôn trồng, rạng tiếng đất non Hồng nhân kiệt.
Cổ
Bàn tân hương, tử tôn kế thừa, phát huy văn võ, lừng danh miền Ngũ Phụng địa
linh.
Có
một loại đối phú từ ba đoạn trở lên gọi hạc tấc, thường thì có một đoạn ngắn
xen giữa hai đoạn dài hơn, hình dung như
khớp gối ở chân con hạc (hạc tấc), điển hình nhất là câu đối phú của Tam Nguyên
Yên Đỗ Nguyễn Khuyến:
“Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình
ngất ngưỡng ngồi trên, nào lềnh, nào trưởng, nào bàn ba, tiền làm sao, đóng góp
làm sao, một năm mười hai tháng thảnh thơi, cái thủ lợn nhìn thấy đà nhẳn mặt”.
“Già chẳng già thì trẻ, đàn tiểu tử lau nhau
đứng trước, này thơ, này phú, này đoạn một, bằng là thế, trắc là thế, khuyên
điểm là thế, ba vạn sáu ngàn ngày thắm thoắt, con mắt gà đeo kính đã mòn tai”.
Các
chữ ở cuối vế và cuối đoạn (gọi chung là chữ đậu câu) phải đối nhau, bằng đối
với trắc và ngược lại chữ đậu câu vần trắc đối với vần bằng, sao cho hợp với
luật bằng trắc trong câu đối phú.
Thật ra, những câu đối hay nhất là những câu ngẩu hứng,
tức cảnh sinh tình như câu:
Huyên thiên xấp xí
Cửu Tý nói điên (của ông Điển Cần, châm ông Cửu Tý cả ngày đi rông ngoài
đường, nói huyên thiên).
Lẩn quẩn lần
quần Điển cần b... cặt (của ông Cửu Tý châm ông Điển Cần cả ngày lẩn quẩn trong vườn).
Và trong cả rừng câu đối đủ loại, đủ kiểu, có rất nhiều
vế đối đưa ra mà không nhận được vế đáp cho hoàn chỉnh.
Câu: Đến Củ Chi,
chỉ cu hỏi củ chi
Đến nay đã có ba vế đáp, đều chưa đạt yêu cầu:
- Lên đèo Le, thấy
đá đừng leo
- Xuống dốc Dựng
chưn không chịu nới
- Gái Cù Mông gồng mu vượt Cù Mông
Về ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng của tiếng Việt rất phong phú
và đa dạng, rất thuận tiện để đặt câu đối, vì thế câu đối đã trở thành món ăn
tinh thần rất phổ biến trong văn học viết lẫn văn học truyền miệng, cấu đối đã
trở thành thú chơi tao nhã trong các sinh hoạt xã hội khác nhau.
Muốn có một câu đối hay, dù ngắn hay dài, Nôm hay Hán đều
cần có ý tưởng mới mẻ, nội dung cô đọng, thể hiện độc đáo.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét