Vạn Giã
Ngày Tết nói chuyện
Bộc trúc - Đào phù
Bộ trúc có nghĩa là pháo trúc. Lấy ống tre, trúc, kín hai đầu, nhồi
thuốc nổ, đốt lửa cho pháo nổ. Tục lệ xưa, người ta làm pháo trúc để tiểu trừ
yêu quỷ, xua đuổi tà ma. Đến khi có giấy, con người lấy nguyên liệu này để thế
cho trúc, tre ống. Thay vì nhồi chặc chẽ thuốc nổ vào ống tre, trúc, họ đem
thuốc nổ ấy cuộn dẽ đặt trong nhiều lớp giấy. Pháo to hoặc nhỏ, đủ cỡ. Lớn thì
gọi là pháo tống, nhỏ thì kêu là pháo chuột,…có ngòi dẫn lửa. Câu đối cổ sau
đây nói lên ý nghĩa công dụng của pháo trúc từ thời xa xưa ấy:
Bộc
trúc nhất phong trừ cựu tuế,
Đào
phù vạn hộ nhạ tân xuân.
Tạm dịch nghĩa:
Pháo trúc một
phong trừ năm cũ,
Đào phù muôn
cửa đón xuân sang.
Hồi còn nhỏ, tôi nhớ mẹ tôi kể lại rằng, cứ mỗi khi Tết
gần đến, ông ngoại tôi thường làm pháo đốt trừ ma, và còn vẽ bùa dán trước ngõ.
Một hôm, trời đứng trưa, nghe tiếng trẻ con khóc, và tiếng hát ru trên ngọn cây
dứa cao ở ngoài gò, ông liền đem pháo ra ngoài ấy, rồi châm ngòi lửa cho pháo
nổ, tức thì tiếng khóc và lời ru ngưng bặt. Tương
truyền cây
dứa lớn ở ngoài đồng, ngoài gò mả, thường là nơi trú ngụ của quỷ ma. Việc ma
quỷ có ở trong các cây dứa lớn ấy hay không, điều ấy không ai đoan chắc, nhưng
cái việc đốt pháo vào mỗi dịp xuân về, là tục lệ xưa nay. Cũng như việc dán đạo
bùa (đào phù) trước cổng ngõ, thì cho đến bây giờ, nhà ai cũng làm. Nhưng đào
phù ấy, nay được thay bằng chữ Phúc,
hoặc chữ Xuân, hay có thể là tờ vàng bạc, ý niệm cầu mong cho mọi sự tốt
đẹp, ăn nên làm ra đến với gia đình trong năm mới. Còn hai hình Thần Trà (Thần
Thư) và Uất Lũy (Uất Luật), thì ngày nay, hai hình ấy chỉ còn tồn tại ở các
đình, và lăng thờ cá Ông,
Về nguồn gốc của trúc
bộc - đào phù, sách Kinh Sở tuế thời
ký, ghi chép:”Vào khoảng thế kỷ thứ
VI, hằng năm tại đất Kinh Sở, thuộc địa bàn Bách Việt, trong đó có Lạc Việt (Tổ
tiên dân tộc Việt Nam). Có ghi hai phong
tục về ngày Tết hằng năm . Đó là tục đốt pháo trúc (trúc bộc), và tục vẽ hai
bên cửa ngõ bùa gỗ đào phù, có hai hình Thần Trà, Uất Lũy” Ở một đoạn khác,
sách này chép:” Ngày mùng Một tháng
Giêng, người ta vẽ hai đạo thần. Bên trái là Thần Thư, bên phải là Uất Luật”. Sách
Ấu học gọi hai vị thần ấy là đạm quỷ chi
thần (thần ăn ma quỷ). Người Trung Hoa xưa có thành ngữ “trúc khua ma”, ý nói pháo trúc xua đuổi tà ma
Tuy nhiên, trước khi có đào phù, hay nói một cách rõ hơn, thì
người xưa đã viết chữ trên đào ngạnh
(cành đào) rồi. Họ quan niệm rằng, cành đào là linh thụ, chứa tinh anh của vũ
trụ, ngũ hành kim, mộc, thủy hỏa, thổ. Đến đời ngũ đại ( 907 – 959) ở Trung
Quốc, các bậc túc nho mới viết chữ trên ván gỗ đào.
Đối liễn phát
sinh từ dân tộc Hán. Mỗi khi Tết đến, Xuân về, họ làm hai câu đối Xuân, gọi là xuân liên. Nếu viết treo hai bên cột
nhà, thì gọi là doanh liên. Viết trên
giấy, thì gọi là doanh thiếp. Như
vậy, những hình thức doanh thiếp, doanh
liên, liễn đối, là có tiền thân
từ đào ngạnh, đào phù.
Người Việt chịu ảnh hưởng
một ngàn năm bắc thuộc, do vậy mà câu đối đã giữ một vai trò rất đậm trong nghệ
thuật văn chương. Vì liễn đối là một cách tu từ chuẩn xác, là bức họa biền ngẫu
song hành. Câu đối không những sâu sắc về ý tưởng, mà còn nói lên phong cách
tao nhã của người chơi. Gặp phải những vế xuất có điển lệ từ kinh nghĩa, như
kinh Thi, kinh Lễ… chẳng hạn, hay cách dụng từ ngữ hiểm hóc, thì vế đối cũng
phải tương ứng mà họa lại cho cân xứng.
Nhân đây, xin
lấy ví dụ một câu đối vui thời cận đại: Đem
tấm ra vô. Cái nghiệt mà cũng là cái lý thú ở chỗ chữ “ra”. “Ra’ là từ Pháp Việt,
nói gọn ở chữ drap (tấm ra trải nệm).
Cái khó thứ hai nữa, đó là cụm ngữ ra – vô. Một cách chơi chữ tuyệt hảo, lại còn thể hiện ngữ điệu một câu khiến, mang tính sai bảo, đồng thời
cũng là động thái đối nghịch.. Vế ứng đối xuất thần như sau :“Kéo áo lên xuống”. Chữ “lên” cũng có
nguồn gốc Pháp Việt, nói gọn của từ laine
(áo lên mặc ấm). Cao kiến ở chỗ sử dụng cụm ngữ lên – xuống. Ngữ điệu câu khiến, và cũng mang hàm ý đối nghịch. Đem tấm ra vô – Kéo áo lên xuống. Đối
nhau chan chát. Thật là tuyệt diệu.
Giai thoại về
một câu đôi Tết kinh điển:
Thiên
tăng tuế nguyệt, nhơn tăng thọ
Xuân
mãn càn khôn, phúc mãn đường
(Trời tăng năm tháng,
người tăng tuổi.
Xuân đẫy đất trời, phước đầy nhà)
Về câu đối
trên có liên quan giai thoại văn chương thật đẹp về cách sáng tạo đối với Cao
Bá Quát. Ông là người nổi tiếng (văn như
Siêu Quát vô tiền Hán). Ông tự cho mimh là người chiếm nhiều bồ chữ trong thiên hạ.Tương truyền rằng.
Một hôm, vào tiết Xuân về, có người đàn bà đến nhà Cao Bá Quát, xin ông một câu
đối. Năm mới, chắc là cô ta cầu lộc, cầu phúc. Vậy là nghĩ ngay đến câu đối Tết
kinh điển trên, ông bèn bớt đi mỗi vế một chữ cuối, rồi viết thành:
Thiên
tăng tuế nguyệt, nhơn tăng
Xuân
mãn càn khôn, phúc mãn
(Trời tăng
năm tháng, người tăng.
Xuân đầy đất
trời, bụng đẫy đà thêm)
Chữ “phúc”
ý nghĩa chúc phúc, chúc may mắn. và còn có nghĩa là bụng, mà bụng mãn, bụng
đẫy đà, vậy là sự mang thai. Xét đấy ta thấy, cũng là một chữ, nhưng Cao Bá
Quat đã xử dụng được hai nghĩa. Đúng là tài tình trong cách sáng tạo.
Để khép lại bài viết, xin đuợc chép ra đây bài Cái pháo của Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông là người văn võ song toàn, thi
đỗ hai cử nhân, cả văn lẫn võ. Người cùng thời với ông cống Chỉnh cho rằng.
khúc tứ tuyệt ấy là lời thơ định mệnh, báo trước cái chết thê thảm của ông về
sau. Ứng nghiệm sau khi ông phản bội nhà Tây Sơn:
Xác không vốn những cậy tay người
Bao nã công trình, tạch cái thôi
Kêu lắm thì càng tan xác lắm
Có gì cũng một tiếng mà thôi.
Tài liệu tham khảo:
-
Nguyễn Hoàng Huy, Câu đối trong văn hóa
Việt Nam ,
NXB. Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh, năm 2004.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét