Đinh Thị Hựu
TÍNH
NGỮ TRONG CA DAO QUẢNG NAM ,
ĐÀ NẴNG
Xét trên góc độ ngôn ngữ học, tính ngữ là một tổ hợp từ tự do không có
kết từ đứng đầu, có quan hệ giữa thành tố chính với thành tố phụ, trong đó
thành tố chính là tính ngữ ( còn gọi là ngữ tính từ ).Trong ngôn ngữ học, tính
từ và ngữ tính từ thuộc nhóm thực từ là một từ loại cần thiết có tác dụng miêu
tả đặc điểm, tính chất, hình dáng,
trạng thái…của sự vật, hiện tượng. Đứng trên bình diện ngôn ngữ nghệ thuật, tính ngữ là định ngữ một phía của ngôn từ
hoặc xác định ý nghĩa chúng chiếm ưu thế, hoặc làm tăng thêm, nhấn mạnh thêm
một phẩm chất đặc trưng nổi bật nào đó của sự vật (1).
Trong ca dao Quảng Nam , Đà Nẵng, tính
ngữ chỉ màu sắc có tần số xuất hiện cao hơn. Điều đó cho biết rằng với tâm hồn
trong sáng, lạc quan, thiết tha với cuộc sống muốn vươn lên làm chủ thiên
nhiên, làm chủ xã hội nên người nông dân xứ Quảng thường sử dụng những gam màu
sáng, tươi tắn để ẩn dụ về sự phát triển, ước mơ hy vọng của mình. Qua khảo
sát, so sánh đối chiếu trong kho tàng ca dao dân ca đất Quảng, có thể nhận diện
gam màu xanh chiếm tỷ lệ cao nhất, rồi đến màu vàng, màu đỏ:
-Trồng cây cũng muốn cây xanh
Nuôi con cũng muốn con thành
thất gia
-Chim
xanh ăn trái ổi tàu
Xứng đôi mẹ gả ham giàu làm chi
-Lom
khom dưới ánh trăng vàng
-Quý
chi một nải chuối xanh
Năm bảy người giành cho mủ dính tay
Nhóm tính ngữ chỉ màu sắc có thể là từ đơn:
(cây) xanh, (trăng) vàng,…nhưng cũng có thể là từ ghép. Trong
ngôn ngữ sinh hoat, khẩu khí của người Quảng thường mạnh mẽ nên người Quảng
thường dùng những từ ghép chỉ đặc trưng tính chất tuyệt đối như đỏ au, trắng nõn, xanh biếc… để tạo ấn
tượng mạnh:
Lắm tiền thì lắm nhơn duyên
Cô kia trắng nõn, không tiền lấy ai?
Đặc biệt đôi khi sau các tính từ chỉ màu sắc người Quảng còn kết
hợp với các từ láy tạo thành những tính ngữ kép: trắng phau phau, đỏ hồng hồng…để làm phong phú thêm sắc thái biểu
cảm:
Cô
kia má đỏ hồng hồng
Cô không biết chữ thì chồng cô
chê…
Giá trị biểu cảm của tính ngữ trong ca dao
thật sâu sắc, cuộc sống được tái hiện một cách sinh động phong phú trong vẻ đẹp
tự nhiên đa dạng của thiên nhiên và tâm hồn con người. Những gam màu sáng -
tối, những khoảng cách không gian xa - gần, những tâm trạng dạt dào yêu thương
hay nhớ nhung cách trở đều được tính ngữ thể hiện một cách phong phú và đa
dạng. Tính ngữ ẩn dụ càng đòi hỏi sự kết hợp hài hoà giữa trí tuệ và cảm xúc, cùng
những thủ pháp nghệ thuật như: tỷ dụ, ẩn
dụ, tượng trưng, nhân hoá,…thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật…tính
ngữ còn góp phần quan trọng để ca dao dân ca đất Quảng phô diễn vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động :
Người ta ăn ở vuông tròn
Sao anh ăn ở như đàn đứt dây:
…
Trong ca dao cổ thường ít dùng gam màu tối,
có chăng là thể hiện quan niệm thẩm mỹ một thời cuả nhân dân: răng đen, áo nâu, áo thâm…Trong ca dao
Quảng Nam, Đà Nẵng gam màu sậm còn được dùng để thể hiện tính dân dã, đạm bạc
của người bình dân:
Chuối xanh nấu với ốc nhồi
Tuy nước nó xám mà mùi nó ngon
Trong ca dao, màu sắc còn được hiểu theo nghĩa ẩn dụ của văn cảnh:
Ai ơi đã vít thì vin
Đã chơi bông trắng đừng nhìn bông
xanh
Bông
trắng, bông xanh ở đây
không còn được hiểu là những bông hoa mà phải hiểu là những người con gái. Sự
phong phú, hấp dẫn của ca dao được tạo nên bởi nhiều yếu tố trong đó có sự góp
phần của việc sử dụng tính ngữ ẩn dụ. Trong số các tính ngữ,có thể nói tính ngữ
chỉ mùi vị là loại tính ngữ được dùng với nghĩa ẩn dụ nhiều hơn cả:
Gừng cay, muối mặn xin đừng bỏ nhau
Trong ca dao Quảng Nam , Đà Nẵng tần số của tính ngữ
mùi vị cũng khá cao (khoảng 80 lần) trong đó mùi thơm (20 lần) cay, (16
lần), chua (14 lần), ngọt (13 lần), đắng (7 lần), đắng cay
(6 lần):
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Qua sông nhớ
suối, có ngày nhớ đêm
Chức năng của ca dao là phô diễn tâm tình
nên tính ngữ chỉ trạng thái không gian và trạng thái tình cảm của con người
cũng xuất hiện trong ca dao nói chung và ca dao Quảng Nam, Đà Nẵng nói riêng
với tần số cao (khoảng 150 lần): cạn
(24 lần), mòn (12 lần), buồn (20 lần), lạnh lùng (21 lần), xót xa (5 lần)…Tuy nhiên, qua thực tế phản
ảnh trong ca dao, dân ca đất Quảng đôi khi chúng ta không bắt gặp một từ nhớ
thương đau khổ nào là tính ngữ cả nhưng câu ca lại nặng trĩu những buồn thương
nhung nhớ:
Chiều chiều mây phủ Sơn Trà
Tình ta thương bạn nước mắt
và lộn cơm
Chiếm một số lượng khá lớn trong nhóm tính
ngữ này là những tính ngữ chỉ kích thước như: cao, dài, sâu, rộng, lớn, đầy, thẳm…những tính ngữ này đã tạo nên
từ ghép chỉ không gian xa cách như: núi
cao, bể rộng, sông dài…đã trở thành những từ ngữ rất quen thuộc phản ánh
tâm trạng cùng những khó khăn, trắc trở trong
ca dao tình yêu:
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời chẳng thấy
người thương
Chiều chiều ra đứng em trông
Trông non, non ngất, trông
sông, sông dài
Những đặc điểm của
thiên nhiên nhiều khi đã được các tác giả dân gian sử dụng để miêu tả thế giới
nội tâm cùng những tình cảm phức tạp của con người. Người ta đã liên tưởng
chiều sâu của sông biển với chiều sâu của lòng người :
Tinh sâu ân nghĩa trả đền
Đừng vui chốn khác mà quên chốn này
Những
tính ngữ chỉ hình khối như vuông, tròn,
tính ngữ chỉ khoảng cách như xa, gần cũng được sử dụng khá phổ biến
để phô diễn tâm tình trong ca dao Quảng Nam, Đà Nẵng. Những tính ngữ này giúp
tác giả dân gian miêu tả, giải thích, nhấn mạnh đặc điểm, trạng thái của nhân
vật trữ tình:
Hai hàng nước mắt rưng rưng
Chàng xa thiếp cách dậm chân
kêu trời
Nhiều khi thiên nhiên được nêu lên với
tính chất bền vững , vĩnh cửu của không
gian để so sánh với tình cảm của con người:
Trăm năm đá nát vàng phai
Non
mòn biển cạn không sai lời nguyền
Chúng ta đọc ca dao
dân ca đất Quảng đến mức không khó khăn lắm để nhận ra nhiều tính ngữ tạo thành
những thành ngữ quen thuộc trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân xứ
Quảng: gừng cay muối mặn , non xanh nước
bạc, sóng cả gió to , sông cạn đá mòn
, đá nát vàng phai:
Em
ôi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc xin đưng bỏ nhau
Các tính ngữ, thành ngữ này có tính chất
khái quát cao, mang đậm sắc thái biểu cảm .Tính ngữ trong ca dao được sử dụng
khá phong phú, góp phần tạo nên sức hấp
dẫn của những câu ca dao nói chung và ca dao Quảng Nam , Đà Nẵng nói riêng. Nghiên cứu
tính ngữ trong ca dao sẽ giúp chúng ta khám phá thêm những vẻ đẹp muôn màu của
tâm hồn con người và những cảnh vật chung quanh cùng với những khuynh hướng
thẩm mỹ của nhân dân mỗi miền .Tính ngữ
là một trong những thành tố quan trọng
góp phần khắc hoạ và tô đậm phong cách ca dao địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Văn Bổn. Văn nghệ
dân gian Quảng Nam , Đà Nẵng.
Sở VHTTQuảng Nam
- Đà Nẵng xb,1983
2.Hội Văn nghệ dân gian Đà Nẵng, Ca dao dân ca đất Quảng, Nxb Đà Nẵng 2006.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét