Đồng Dao
Trong suốt thời
kì đấu tranh chống ách thống trị của đế quốc phong kiến xâm
lược, nhân dân ta nhiều phen lật đổ chính quyền của bọn đô hộ. Với
chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 thì mới chấm dứt được
ách thống trị của phong kiến phương Bắc và mở đầu thời kì của quốc gia độc lập.
Tất cả thể hiện niềm tự hào về Tổ quốc, dân tộc.
Khối cộng đồng người
Việt vốn rất chặt chẽ từ thời kì trước (vì đời sống cộng đồng
đòi hỏi mọi người phải sống nương tựa vào nhau nên tính tập thể là đặc điểm tối
ưu) càng được củng cố sau cuộc đấu tranh lâu dài đuổi ngoại xâm. Vì vậy sau khi
giành độc lập thì ý thức về một đất nước càng thể hiện rõ.
Với Việt Nam ,
thời trung đại chính là thời kì phong kiến. Ở đây, Văn hóa trung
vừa thuộc phạm trù lịch sử vừa thuộc phạm trù giá trị. Và quan hệ giữa con
người và tự nhiên trong văn hóa trung đại thể hiện khá rõ trong văn học- bởi
văn học cũng chính là đời sống.
Đối với người Việt Nam ,
tố chất cơ bản nuôi sống con người là hạt gạo bát cơm. Nghề sinh sống cơ bản
xưa nay là nghề trồng lúa nước, đó cũng là cơ sở hình thành nên văn hóa Việt Nam -
văn hóa làng xã. Có thể nói đây là yếu tố cơ bản để Việt Nam không bị Trung Hoa đồng hóa
trong ngàn năm Bắc thuộc. Chúng ta vẫn thường cho rằng văn hóa là cách ứng xử
thích hợp với thiên nhiên làm nên lối sống, nếp sống của một cộng đồng hay xã
hội. Hay nói cách khác, văn hóa là những biểu hiện trong mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên.
Như đã nói, nước
ta bắt đầu với nền văn minh nông nghiệp nên lẽ đương nhiên phụ thuộc rất
nhiều vào tự nhiên. Đặc biệt trong thời phong kiến, khoa học kĩ thuật chưa là
công cụ đắc lực cho con người như ngày nay. Chính vì vậy, con người và tự nhiên
có mối quan hệ vô cùng gắn bó, mật thiết. Một mặt con người tôn sùng, tín
ngưỡng trước những hiện tượng tự nhiên; một mặt cũng lo sợ trước thiên nhiên
biến hóa không cùng, ngoài vòng kiểm soát của họ.
Là một dân tộc
sống bằng nghề nông, phụ thuộc vào thiên nhiên nặng nề nên chưa
có một vũ trụ quan có hệ thống mà chỉ có những tín ngưỡng
nguyên thủy. Đầu tiên là thờ các thần tự nhiên như thần mặt trời, thần nước,
thần sông, mây mưa, sấm chớp…sau đó là thờ thần lúa với rất nhiều lễ nghi, lễ
hội như: rước nước, lễ xuống đồng, lễ cơm mới. Long Quân diệt ba con chằn tinh
ở ba vùng cho dân yên ổn làm ăn thì đất nước có ba vùng. Cùng với sự trồng lúa
nước có sự phát triển của chăn nuôi và những hoạt động sinh sống khác từ trước
vẫn còn tiếp tục (chài lưới, săn bắn) nên việc thực hiện tín ngưỡng phồn thực
hay thờ sinh thực khí của nam và nữ cũng xuất hiện.
Đi gần tới việc trời
đất, vạn vật được sinh ra thế nào thì truyền thuyết. thần thoại nước ta không
thiếu những lời kiến giải ngây thơ. Vẫn là thần, nhưng thần Trụ Trời là người
đã tách trời khỏi đất, làm nên sông hồ, núi non. Tiếp theo đó là những “ông”:
ông tát bể, ông kể sao, ông trồng cây, ông xây rú. Những Ông ấy được tạo ra từ
hình dáng con người và chính con người với sức lao động của mình- cả cơ bắp lẫn
tư duy- đã tạo ra thế giới ấy. Trường ca anh hùng của người Mường “Mo đẻ đất đẻ
nước’ rõ rệt, trọn vẹn hơn cả. Trong đó có lời kể về cả một quá trình sáng tạo
vũ trụ, hình thành nên muôn loài, hình thành con người và xã hội loài người.
Thời trung đại, con
người chưa nhìn tự nhiên như một khách thể và mình là chủ
thể. Đối với con người trung đại, tự nhiên là để tiêu dùng chứ không còn ý
nghĩa nào khác. Bởi vì nông nghiệp là chủ yếu nên con người khai thác tự nhiên
mà sống. Dần dần sau đó, con người thấy mình trong tự nhiên, bắt đầu từ thân
thể. Người ta vẽ mắt vào đằng mũi thuyền để tránh đá ngầm, nước xoáy; hoa sen
tượng trưng cho đức Phật; hay, “cổ tay em trắng như ngà, con mắt em sắc như là
dao cao, miệng cười như thể hoa ngâu, chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen”.
Người ta nhìn thấy một phẩm chất nhất định và tốt đẹp ở sự vật và bản thân mình
cũng có phẩm chất ấy nên gán luôn cho cảnh vật: phẩm chất kiên cường, bất chấp
gian nan, thử thách ở cây tùng cây bách “tuế hàn nhi tri rùng bách chi hậu
điêu”
Trong quá trình tiến hóa
của xã hội tự nhiên thì việc xuất hiện của con người được xem là một kết quả
của quá trình phát triển vượt bậc. Con người là một động vật bậc cao với sự
phát triển hoàn chỉnh của bộ não và đôi tay được xem là một thành tựu. Cùng với
sự phát triển đó của con người thì rất nhiều quan niệm khác về con người ra
đời.
Nền giáo dục Nho học thì thường
chú trọng vào khía cạnh đạo đức, chỉ quan tâm đến ứng xử
xã hội của con người. Đó cũng chính là yếu tố cốt lõi để
phân biệt con người này với con người khác trong một xã hội. Ngược lại,
phương Tây thì lại có quan niệm thực tế hơn, con người hay con vật khác nhau ở
khả năng nhận thức, tư duy. Còn những triết gia hiện đại thì đề cao tư cách cá
nhân của con người.
Tự nhiên nước ta
nằm trong miền khí hậu nhiều nắng nóng, mưa ẩm quanh năm,
có nhiều sông ngoài, ao hồ và có trên 3000 km bờ biển. Điều kiện tự nhiên
ấy rất thuận lợi cho thực vật phát triển và phù hợp với đời sống con người
trong xã hội săn bắt hái lượm. Tuy nhiên, khi dân số tăng lên, tự nhiên không
đủ để duy trì cuộc sống của con người. Lúc đó, con người sẽ sang một thời kì
khác- thời kì đồ đá mới. Với công cụ lao động là rìu, đá …đã đánh dấu bước phát
triển vượt bậc so với những thời kì trước. Con người bắt đầu tiến mạnh xuống
trung du và đồng bằng, chặt phá cây, mở rộng đất đai canh tác. Con người thuần
dưỡng cây lúa hoang thành cây lúa nước theo mùa vụ
Cùng với nguồn
gốc đó, ta thấy ở các đền Hùng đều thờ những
vỏ trấu rất to làm bằng gỗ, có sơn son thếp vàng. Hoặc câu chuyện
chàng Lang Liêu lấy gạo nếp và đỗ xanh chế ra bánh chưng bánh dầy làm
lễ vật dâng vua cha, được vua cha truyền ngôi cho.
Vì là nền văn
minh nông nghiệp, lại chưa có nhiều công cụ nên con người sản xuất
dựa vào phỏng đoán của mình vào tự nhiên là chủ yếu “
trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa” hay “ chuồn chuồn bay thấp
thì mưa…”. Lúc này, con người cũng bắt đầu tìm cách tác động vào tự nhiên, bắt
tự nhiên phục vụ mình như đắp đê ngăn nước, làm thủy lợi dẫn nước…nhưng cơ bản
vẫn lệ thuộc vào thiên nhiên. Với cuộc sống như vậy, con người luôn là nhân tố
quan trọng trong công cuộc lao động sản xuất. Họ luôn xem “ người sống đống
vàng”, “ người ta là hoa đất”. Với họ, con người còn quan trọng hơn của cải, họ
có thể mất của chứ không thể mất người “của đi thay người” “còn người còn của
”…
Trong lao động sản xuất,
con người không nắm bắt được những quy luật của hiện tượng tự nhiên mà chỉ có
thể dự báo dựa trên những kinh nghiệm của mình là chủ yếu “trăng quầng trời hạn
trăng tán trời mưa”, “ráng mỡ gà có nhà thì giữ” hay “tôm đi chạng vạng, cá đi
rạng đông”…Lúc bấy giờ, thiên nhiên với con người vẫn là điều bí ẩn. Trước
những hiện tượng thiên nhiên mà họ không thể chống chọi hoặc lí giải được thì
họ lại thần thánh hóa nó lên và gắn cho nó một sự tích hay một hình tượng nào
đó để thờ cúng như Sơn Tinh Thủy Tinh gắn với hiện tượng lũ lụt hằng năm; thủy
triều lên xuống với họ là thần biển đang hít thở; sấm chớp mây mưa đều do các
thần tạo ra. Như vậy, thiên nhiên là nguồn cung cấp, nuôi dưỡng sự sống cho họ
nhưng đồng thời cũng là kẻ thù mà họ chưa thể chống chọi lại được.
Gia đình cơ bản của
người Việt là một chồng một vợ và các con chưa trưởng thành cùng
sinh hoạt trong một không gian theo chế độ phụ quyền. Gia đình kiểu
này hình thành từ thời kì trước khi cuộc sống tự sản xuất ra của cải để nuôi
mình phát triển thì đàn ông trở thành lao động quan trọng trong gia đình. Trong
gia đình Việt Nam
gắn với nền kinh tế tiểu nông là chính ấy, tuy là chế độ phụ quyền nhưng người
đàn bà vẫn quán xuyến, lo toan, tần tảo kiếm ăn, thậm chí lo cho chồng con ăn
học nên họ vẫn đóng vai trò quan trọng trong gia đình. Vì thế mới có truyền
thống “lệnh ông không bằng cồng bà” người vợ là “ tay hòm chìa khóa” hay “ của
chồng công vợ”…
Nghề nông nghiệp
lúa nướcdiễn tiến theo từng giai đoạn nhỏ nhưng phải hội tụ thành
làng là một tất yếu tự nhiên xã hội, bởi nông nghiệp lúa nước
phải gắn liền với trị thủy. Mà vấn đề trị thủy
phải đòi hỏi sức mạnh của cộng đồng mới có thể xây dựng
hệ thống mương, đập chống hạn, đắp đê ngăn lụt. Như vậy, trong mối quan hệ
giữa con người và thiên nhiên thì đã bắt đầu xuất hiện khát vọng chinh phục tự
nhiên và bước đầu họ đã tiến hành thực hiện nó. Kinh tế nông nghiệp Việt Nam
không chỉ đơn thuần có cây lúa mà còn có rất nhiều loại cây hoa màu khác cho
củ, quả, hạt…cây lâu năm ăn trái và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nền tảng kinh tế
ấy dĩ nhiên phụ thuộc nặng nề vào tự nhiên. Nghề nông gắn liền với trị thủy.
Vấn đề trị thủy không giới hạn trong mỗi làng mà còn yêu cầu sức mạnh liên kết
giữa các làng, vùng, miền. Và cứ thế, con người tất yếu phải cư trú thành làng.
Thế nhưng làng không thể mở rộng không gian cư trú vô hạn định, bởi nó chịu sự
chi phối của nhiều yếu tố như phạm vi đất canh tác, điều kiện địa lí tự nhiên .
. .
Có thể nói,
văn hóa nông nghiệp lúa nước là nền văn hóa nhào nặn giữa Đất
và Nước. Trường tồn trong lịch sử văn hóa Việt Nam đã diễn ra như thế.
Mở đầu
từ châu thổ sông Hồng, sông Mã khi nước biển bắt đầu rút
dần thì con người tràn xuống trung du, đồng bằng tụ cư, khai phá đất đai,
phát triển nghề lúa nước. Con người lúc này phải thường xuyên đối mặt với sự
tấn công của thú dữ, lũ lụt, hạn hán và các thế lực ngoại xâm. Và trong quá
trình chống chọi lại những thế lực đó tính cách con người hình thành.
Con người Việt Nam
giàu lòng nhân ái “lá lành đùm lá rách” , “của ít
lòng nhiều” . . .Con người Việt không phải sống theo kiểu “đèn
nhà ai nhà nấy rạng” mà phải “tối lửa tắt đèn
có nhau” cốt để cùng nhau tạo sức mạnh chống lại thiên tai. Vì
thế người Việt thường “bán bà con xa mua láng giềng gần” và luôn cho rằng “ một
con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”.
Trong các lĩnh vực khác
của đời sống cũng vậy. Người Việt muốn “an phận thủ thường” nhưng lại
khuyên nhau rằng “chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo” hoặc “ở bầu thì tròn ở ống
thì dài” , “đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. Con người nông nghiệp
lúa nước Việt Nam ,
về cơ bản, luôn khát vọng yên ổn hòa bình. Bởi họ nghĩ có “an cư” mới “lạc
nghiệp”, có yên ổn thanh bình thì con người mới có thể làm ăn. Vì vậy họ trọng
tình, “dĩ hòa vi quý”, “hiếu hòa hơn hiếu thắng”. Họ sẵn sàng “chín bỏ làm mười”,
“đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”. Sự bao dung, độ lượng cũng là
nét tính cách của người Việt.
Có thể thấy
rằng, văn hóa của con người trồng cấy Việt Nam là cái bản lĩnh biết nhu-
cương, biết công biết thủ, biết “trông trời trông đất trông mây. Trông mưa
trông nắng trông ngày trông đêm” rồi tùy thời mà làm ăn theo chuẩn mực “nhất
thì nhì thục” ấy là khả năng ứng biến của con người Việt Nam, của lối sống Việt
Nam, văn hóa Việt Nam.
Trong quan hệ với
tự nhiên, con người tận dụng triệt để môi trường tự nhiên để duy trì
sự sống, để chống lại các thế lực ngoại xâm. Nếu như nhiều dân tộc coi ăn uống
là chuyện tầm thường không đáng nói thì người Việt coi rất thiết thực, thậm chí
công khai cho rằng “có thực mới vực được đạo”, nó quan trọng đến mức “trời đánh
còn tránh bữa ăn”. Ngay cả khi tính thời gian cũng lấy ăn uống và cây trồng làm
đơn vị: làm gì nhanh thì trong khoảng “giập bã trầu” lâu hơn thì “chín nồi
cơm”, còn kéo dài lâu nữa thì tới “hai mùa lúa” . . .
Trong cơ cấu
bữa ăn của người Việt cũng in đậm bản sắc lúa nước của mình. Không
thể thiếu là cơm, cà, dưa, rau rồi mới đến thịt. Cả trong
phương thức ăn cũng thể hiện tính cộng đồng rất rõ-quây quần cả nhà
bên nhau ăn uống vui vẻ.
Trong việc ứng
phó với môi trường tự nhiên, thể hiện rõ nhất qua việc
mặc. Việc mặc giúp con người ứng phó với cái nóng, rét, mưa, gió. Nhân dân ta
đã nói một cách đơn giản: “được bụng no, còn lo ấm cật”. Vì vậy, cũng như trong
chuyện ăn, quan niệm về mặc của người Việt Nam cũng là một quan niệm rất thiết
thực “ăn chắc mặc bền” . . .
Nhưng mặc không
chỉ để ứng phó với môi trường tự nhiên mà còn
có ý nghĩa xã hội rất quan trọng “quen sợ dạ,
lạ sợ áo”. Mặc trở thành mục đích để trang điểm, làm đẹp “người
đẹp vì lụa lúa tốt vì phân”, mặc giúp con người khắc phục những nhược điểm về
tuổi tác “cau già khéo bổ thì non, nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa”.
Ở xã hội Việt Nam cổ
truyền bản chất của nông nghiệp là sống định cư nên con người ít di chuyển. Có
đi thì cũng đi rất gần. Hoạt động chủ yếu của con người nông nghiệp Việt Nam là đi từ
nhà ra ruộng, lên nương. Việt Nam
là vùng sông nước, kênh mương chằng chịt và bờ biển dài. Bởi vậy, vấn đề đi lại
từ ngàn xưa chủ yếu là đường thủy; và người Việt xưa giỏi bơi lặn, thạo thủy
chiến, giỏi dùng thuyền. Sông ngòi phong phú thuận tiện cho giao thông đường
thủy phát triển lại gây khó khăn cho giao thông đường bộ. Vì vậy Việt Nam hay
có những cầu tre, cầu dừa, cầu dây . . . chính vì thế mà hình ảnh sông nước ăn
sâu vào tâm thức của người Việt Nam “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”, “ăn cỗ
đi trước lội nước theo sau”, “thuyền theo lái gái theo chồng”. Người Việt hay
nói “chìm đắm trong suy tư”, “thời gian trôi nhanh”, “ăn nói trôi chảy”, “thân
bọt bèo”. Ngay cả khi đi bộ cũng nói theo kiểu đi trên sông “lặn lội đến thăm
nhau”, “quá giang”. ..
Những người sống bằng
nghề sông nước thường lấy ngay thuyền, bè làm nhà ở. Nhiều gia
đình quần tụ lập nên xóm chài, làng chài. Ấn tượng với thiên nhiên sông
nước mạnh đến nỗi nhà của người Việt thường được làm với chiếc mái cong mô
phỏng hình thuyền. Chiếc mái cong ngoài hình ảnh con thuyền không có tác dụng
thực tế gì cho nên về sau người bình dân thường làm thẳng cho giản dị, chỉ có
những công trình kiến trúc lớn mới làm mái cong cầu kì.
Bên cạnh việc xây nhà
thì chọn hướng nhà cũng là cách tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự
nhiên để ứng phó với nó. Hướng nhà tiêu biểu là hướng nam- vừa tránh được cái
nóng từ phía tây, cái bão từ phía đông, gió từ phía bắc và tận dụng gió mát từ phía
nam “gió nam chưa nằm đã ngáy” hay “cất nhà quay cửa vô nam, quay lưng về
chướng không làm cũng có ăn”.
Ngoài ra người Việt cũng
rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng. Đến thời kinh tế hàng
hóa phát triển, người Việt còn chú ý chọn vị trí giao thông thuận tiện “nhất
cận thị, nhị cận giang” những đô thị có tốc độ phát triển nhanh đều là những đô
thị gần biển, sông thuận tiện giao thông.
Con người thời đại
này quan niệm thiên, địa, nhân nhất thể “thiên thời địa lợi nhân hòa”. Con
người, trời dất đều có cấu trúc âm-dương, có chung một cấu trúc vật chất. Nếu
trời đất vận hành theo qui luật âm- dương hài hòa, ngũ hành biến hóa thì con
người cũng vận hành theo qui luật đó. Sự biến chuyển của vật chất là một quá
trình cuối cùng trở về lại cái ban đầu: thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh
thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Cứ như vậy vật chất biến hóa
theo chu kì. Quan niệm đó dẫn đến lối giải thích duy tâm: mọi tài năng của con
người đều do trời phú mà có:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người
có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần
thanh cao
(Nguyễn Du)
Nhìn
chung, con người đặt trong mối quan hệ với thiên nhiên là một quan hệ gắn
bó không thể tách rời. Thiên nhiên nuôi sống con người, giúp con người chống
lại những thế lực ngoại xâm nhưng thiên nhiên cũng là thế lực mà con người phải
chống đỡ. Trong giai đọan trung đại Việt Nam, đối với con người thiên nhiên là
một lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người cũng đã có những lúc run sợ
trước những thế lực đó; Nhưng dần dần họ đã tìm ra nhiều cách để chinh phục
thiên nhiên để phục vụ cho đời sống của mình.
Tài liệu tham khảo
1.
Nguyễn Trãi – Thơ và đời – NXB văn học;
2. Văn
hóa Việt Nam
– Đỉnh cao Đại Việt – NXB Hà Nội;
3.Đặc
trưng văn học trung đại Việt Nam–Lê Trí Viễn–NXB văn nghệ Tp
HCM.
4. Văn
học Việt Nam
– thể kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII
– Đinh Gia Khánh chủ biên – NXB Giáo dục
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét