Võ
Văn Hoàng
Thiên Hậu Thánh Mẫu
trong tín ngưỡng
của cộng đồng người
Hoa
ở Hội An
Hội An là một thị xã trực
thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm bên bờ bắc sông Thu Bồn, cách thành phố Đà Nẵng
khoảng 30 km về phía Đông Nam. Hội An là đô thị thương cảng hình thành vào cuối
thế kỷ XV, phát triển trong suốt các thế kỷ XVI-XVIII, đến thế kỷ XIX, chức
năng của thương cảng Hội An suy giảm dần và nay chỉ còn là đô thị vang bóng một
thời. Trong thời kỳ thịnh vượng của mình, Hội An là khu vực tập trung buôn bán
của thương nhân trong nước và quốc tế, trong đó thương nhân Trung Hoa là một
trong những thương nhân ngoại quốc được chúa Nguyễn cho phép định cư trên mảnh
đất Hội An, họ đã để lại nơi đây những dấu ấn về đời sống văn hóa độc đáo.
Trong đó, Thiên Hậu Thánh Mẫu - Thần Biển - là một trong những vị thần gắn chặt
với đời sống tâm linh của họ.
1. Đôi nét về quá trình
hình thành cộng đồng người Hoa ở Hội An:
Sau những phát kiến địa
lý vào cuối thế kỷ XV, các nước châu Âu hướng ra nước ngoài tìm kiếm thị
trường. Lúc này, Nhật Bản đã thống nhất đất nước và cho phép thương nhân Nhật
vượt biển đi giao thương với các quốc gia trên thế giới. Còn ở Trung Quốc, lệnh
“bế quan tỏa cảng” từ đầu triều đại nhà Minh nay cũng được hủy bỏ, tạo điều
kiện cho thương nhân Trung Hoa ra nước ngoài buôn bán, đã làm cho các hoạt động
thương mại trên biển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng trở nên sôi
động. Lúc này ở Việt Nam, các chúa Nguyễn cũng ban hành nhiều chính sách khuyến
khích thương nhân ngoại quốc đến Đàng Trong buôn bán, nhằm phát triển kinh tế
và củng cố quyền lực chính trị của mình. Vì vậy, đã tạo điều kiện cho Hội An
sớm trở thành một trong những thương cảng quốc tế sầm uất.
Thời bấy giờ, việc giao
thương trên biển bằng thuyền buồm nên phải phụ thuộc vào chế độ gió mùa. Hàng
năm, thuyền buôn từ Trung Quốc đến Hội An thường khởi hành vào mùa xuân, đến
mùa hè họ giong buồm lên đường trở về nước. Trong mỗi mùa mậu dịch, họ phải lưu
trú lại Hội An từ 3 đến 4 tháng, trong khoảng thời gian này họ tiến hành thu
gom hàng để chở về nước. Tuy nhiên, do điều kiện thiên nhiên, tốc độ sản xuất,
cũng như khai thác, nên họ thường không mua đủ lượng hàng như dự định, nên phải
cử người ở lại đi vào những vùng sâu trong nội địa thu mua hàng chuẩn bị cho
mùa mậu dịch năm sau.
Để tạo điều kiện thuận
lợi cho họ, Chúa Nguyễn đã cho phép họ được chọn đất, cất nhà, xây dựng đình,
chùa, hội quán,… Năm 1618, Cristophoro Borri đến Đàng Trong, ông thấy Hội An là
một thành phố lớn đến độ có thể nói là có đến hai thành phố, một phố của người
Tàu, một phố của người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng, có quan cai trị riêng và
sống theo tập tục riêng[1].
Năm 1635, Chính phủ Nhật ra lệnh bế quan tỏa cảng, từ đó người Nhật ở Hội An
rơi vào tình trạng cô lập, không đủ sức đối phó với thương nhân Trung Hoa đang
phát triển mạnh mẽ, dần dần người Hoa tràn sang khu phố của người Nhật và trở
thành cư dân chính cư trú và điều tiết mọi hoạt động thương mãi ở Hội An.
Đến giữa thế kỷ XVII,
thương cảng Hội An bổ sung thêm một lượng lớn người Hoa từ các tỉnh duyên hải
miền Nam Trung Hoa di cư đến. Vì lúc này ở Trung Quốc loạn lạc khởi nghĩa xảy
ra khắp nơi, các bộ tộc người Mãn ở phương Bắc đã liên kết lại với nhau lật đổ
nhà Minh, lập nên nhà Thanh và bắt buộc nhân dân trong toàn quốc phải cạo tóc,
thắt bím, ăn mặc như người Mãn. Trước tình hình đó, các quan lại, thần dân nhà
Minh đã rời bỏ đất nước để tránh sự đàn áp của nhà Thanh, đồng thời cũng để giữ
lòng trung tín với triều đình cũ, rất nhiều người đã tìm đến Hội An. Được phép
của chúa Nguyễn, họ định cư và hòa nhập vào đời sống của những người Hoa đến
trước, hình thành nên những tổ chức làng xã của cộng đồng người Hoa ở Hội An.
Ngày 18 tháng 8 năm 1695,
Thomas Bowyear đến Hội An, ông thấy Hội An là một thành phố mà toàn người Hoa ở[2].
Cùng năm, thiền sư Trung Hoa là Thích Đại Sán cũng đến Hội An, ông thấy: “Thẳng
bờ sông, một con đường dài 3, 4 dặm gọi là Đại Đường cái, hai bên đường hàng
phố ở liền nhau khít rịt, chủ phố thảy đều người Phúc Kiến, vẫn ăn mặc theo lối
tiền triều (nhà Minh)”[3].
Cho đến thế kỷ XIX, tình hình di dân của người Hoa đến Hội An vẫn diễn ra. Đến
năm 1949, khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập, người nhập cư Trung
Hoa đến Hội An gần như bị đình chỉ.
2. Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của
người Hoa ở Hội An:
2.1. Nguồn gốc thờ Thiên Hậu của
người Hoa:
Như chúng ta
đã biết, Trung Hoa là một trong những quốc gia nổi tiếng về ngành hàng hải, đồng
thời họ có nền thương nghiệp trên biển trải dài hàng nghìn năm qua. Từ xưa, những
thương nhân Trung Hoa chỉ cần một chiếc thuyền nhỏ là có thể giong buồm ra
khơi, tiến xuống các quốc gia ở khu vực miền Nam kiếm sống. Thời đó, phương tiện
đi lại trên biển chủ yếu là thuyền buồm nên họ phải lênh đênh trên biển hết năm
này qua năm khác, trong khi đó biển cả thì bao la và nguy hiểm, còn con người
thì nhỏ bé, họ không có một năng lực phòng thủ hiệu quả và phải luôn đối mặt
trước sức mạnh của các thế lực siêu nhiên. Mỗi lần giong buồm đi/về, họ luôn cầu
nguyện những vị thần mà họ tin rằng những vị thần đó có một khả năng siêu
nhiên, có thể cứu giúp họ bất cứ lúc nào. Trong đó thần Biển là vị thần gắn chặt
trong tâm thức của họ, mà hiện thân là Thiên Hậu - một cô gái còn trinh trong
truyền thuyết.
Thiên Hậu được người Hoa gọi dưới
nhiều danh xưng tôn quí khác nhau như: Thiên Thượng Thánh Mẫu (Mẹ Thánh trên trời),
Mã Tổ Bà (Bà Tổ), A Phò (Đức Bà, Đức Mẫu),… Người ta cho rằng, Bà sinh vào thời
Tống Kiến Long năm thứ nhất (960), là con gái thứ sáu của Lâm Nguyện - Đô tuần
kiểm huyện Bồ Điền, phủ Hưng Hóa, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Tương truyền khi
Bà mới sinh ra đã có những luồng ánh sáng và mùi hương thơm kỳ lạ xuất hiện,
khi lớn lên bà rất hoạt bát và thông minh, đặc biệt Bà có thể cưỡi chiếu lướt
trên biển cả, cưỡi mây ngao du khắp thiên hạ nên người ta gán cho Bà danh hiệu
“Long Nữ”. Đến tuổi cập kê, rất nhiều người đến cầu hôn nhưng Bà lại không muốn
lấy chồng. Đến thời Tống Ung Hy năm thứ 4 (987), khi sắp qua sinh nhật lần thứ
28, Bà nhờ mẹ giúp mình trang điểm thật lộng lẫy, sau đó ngồi trang nghiêm trên
ghế và nhẹ nhàng nhắm đôi mắt lại. Mẹ Bà ngửi thấy mùi phấn hương kỳ dị tỏa ra
lan rộng ngoài mấy dặm, và một đoàn tiên nữ từ trên trời bước xuống dìu Bà bước
lên đuôi rồng và mất hút giữa bầu trời.
Nhiều truyền thuyết còn lưu lại đến
ngày nay xoay quanh sự cứu rỗi của Bà. Người ta kể rằng: Thuở còn nhỏ, Bà có bốn
người anh đều là những thương nhân sống bằng nghề buôn bán trên biển. Một hôm
biển động mạnh, Bà đang ngồi trong khuê phòng một mình, bỗng dưng Bà mắt nhắm lại,
tay chân như mất hết sự khống chế, cứ múa loạn liên hồi. Vừa lúc đó, mẹ Bà bước
vào phòng, nhìn thấy cảnh tượng như vậy liền hoảng sợ vội gọi cha Bà, cha Bà chạy
đến cũng nhìn Bà lo lắng, ông nghĩ con mình nhất định bị dông bão làm cho lo sợ
mất hồn, không kìm được ông đã gọi Bà dậy. Bà bàng hoàng như vừa trong cơn ác mộng
tỉnh lại, đôi mắt mở to như vẫn còn đang suy nghĩ lo sợ. Ba ngày sau, ba người
anh của Bà trở về chỉ trừ người anh cả, họ thuật lại cho cha mẹ nghe về việc gặp
cơn sóng thần 3 ngày trước ngoài biển làm bốn anh em mỗi người ly tán một nơi.
Chính trong lúc đó có một bé gái đạp sóng đi đến, nắm lấy dây buộc cột buồm, dẫn
từng chiếc một vào eo biển tránh gió. Nhưng khi bé gái đang dắt chiếc thuyền của
người anh cả, thì bỗng dưng không thấy bé gái đâu nữa, một cơn sóng khổng lồ đã
cuốn mất chiếc thuyền người anh. Nghe đến đây cha mẹ Bà đã hiểu, hôm đó con
mình không phải bị bệnh mà là đang cứu các anh[4].
Sự thờ cúng Bà ở Trung Quốc đột ngột
nảy sinh vào cuối thế kỷ XI, về sau nhiều đền miếu thờ Bà được người Hoa xây dựng
ở khắp nơi. Vào năm Tuyên Hòa Tống Vi Tông (1123), Bà nổi tiếng hơn khi cứu một
viên quan triều đình là Cấp sự trung Lộ Doãn Địch khi ông phụng mệnh đi sứ sang
Triều Tiên, khi thuyền của ông gần đến My Châu thì sóng thần kéo tới, bỗng dưng
Bà xuất hiện và dẫn con thuyền đi yên ổn. Năm sau khi ông trở về, Hoàng đế nhà
Tống đã ban tặng cho ngôi đền của Bà tên “Thuận Tế Miếu”. Năm 1155, không rõ vì lý do gì
bà được phong là Linh Huệ phu nhân, Bà tỏ ra đặc biệt hữu
hiệu khi cứu trận hạn hán năm 1187 và 1190 ở Trung Quốc. Năm Tống Quang Hy thứ
3 (1192), do bắt được bọn cướp biển mà Bà được thăng bậc từ tước Phu nhân đổi
thành tước Phi và vài năm sau Bà được phong Thánh Phi. Đến đầu thế kỷ XIII, Bà
được cư dân vùng duyên hải Nam Trung Hoa thờ tự nhiều. Trên tấm bia đá được dựng
năm 1228 tại đền thờ Bà ở Hàng Châu kể lại như sau: có một luồng sáng siêu
nhiên bất chợt hiện trong đêm bên bờ biển My Châu, tất cả những người dân ở nơi
đó đều mơ thấy một cô gái nói với họ: “Ta là nữ thần My Châu, phải để ta ở
đây”. Sau sự kiện này, người dân lập một ngôi đền thờ Bà trên bãi biển. Đến năm
1278, Hoàng đế Mông Cổ là Hốt Tất Liệt phong Bà chức Thiên Hậu[5].
Đến thời Minh Thành Tổ Châu Đệ, Bà nổi
tiếng hơn về sự linh ứng của mình bởi Bà đã cứu Trịnh Hòa khi ông dẫn đoàn thuyền
buôn của triều đình đang vượt biển đi về phía Tây. Hôm đó bỗng dưng xuất hiện
giông bão, đoàn thuyền buôn bị sóng đánh sắp vỡ tan, Trịnh Hoà bèn quỳ xuống
khoang thuyền cầu nguyện trời phù hộ, bỗng trên không có tiếng nổ vang dội, một
vị nữ thần xuất hiện trên tay cầm chiếc đèn đỏ. Vị thần quát thét gió mây,
trong giây lát trời quang biển tạnh. Bà xưng là Thiên Phi công chúa và tặng cho
Trịnh Hòa chiếc đèn đỏ và bảo: “Từ nay đi trên biển, ban ngày phải nhìn mặt trời,
ban đêm phải nhìn đèn đỏ”. Tương truyền về sau, mỗi lần ra biển, bao giờ Trịnh
Hòa cũng mang theo chiếc đèn đỏ và bức họa Thiên Phi. Về sau này, những người
Hoa dù sống bằng nghề đánh bắt hải sản hoặc buôn bán trên biển, ngoài chiếc la
bàn, hải đồ,… thì người ta đều mang theo chiếc đèn đỏ và bức hình Bà trên những
con tàu, người ta đặt trong một cái khám nhỏ và ngày nào cũng hương khói cầu
nguyện. Tước Thiên Phi của Bà vẫn được giữ dưới triều Minh và kéo dài cho đến
những năm đầu triều đại Mãn Châu. Đến thời Khang Hy nhà Thanh lại phong là
Thiên Hậu, nên danh hiệu Thiên Hậu Thánh Mẫu còn lưu lại đến ngày nay…[6].
Hơn mười thế kỷ trôi qua, từ đời Tống,
Nguyên, Minh, Thanh và trải dài cho đến tận ngày nay, người Hoa có thể do quá
sùng bái Bà nên đã thêu dệt lên hàng trăm câu chuyện có thật (hoặc không có thật)
về sự linh ứng của Bà và xây dựng lên nhiều đền miếu để thờ tự Bà. Bà đã trở
thành vị thần Biển, vị nữ thần luôn theo cùng con người trên các chuyến hải
trình đầy gian nan, nguy hiểm.
2.2. Thiên Hậu
Thánh Mẫu trong tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa ở Hội An:
Con đường di dân của người Hoa đến Hội An chủ
yếu bằng đường biển, nên họ đã trải qua những tháng ngày vượt biển đầy khó
khăn, nguy hiểm để đến được Hội An. Nhưng Hội An lúc này đã từng là thương cảng
dưới thời vương quốc Chămpa và sau này là khu vực tụ cư của người Việt, nhưng vẫn
còn là vùng đất hoang sơ, hằng năm mưa gió, bão lụt xảy ra triền miên,… Chính
vì vậy, họ luôn mang tâm trạng lo sợ và cảm thấy bất an nên họ nghĩ đến vị thần
đã hết lòng giúp đỡ, cưu mang mình trên bước đường vượt biển đến vùng đất mới
an toàn. Người Hoa cảm cái Đức lớn của Bà nên đã tiến hành xây dựng Hội quán
Ngũ Bang và Hội quán Phước Kiến để thờ tự vị thần đã giúp họ vượt biển an toàn.
Việc thờ cúng Thiên Hậu của người Hoa ở Hội An, hầu như được duy trì từ trước đến
nay tại Hội quán Ngũ Bang và Hội quán Phúc Kiến, cũng như tại nhà riêng của một
số gia đình người Hoa.
Tại Hội Quán
Ngũ Bang và Hội quán Phước Kiến, người ta thờ Bà trang trọng ở gian chính giữa
của Hội quán, cung thờ Bà được trang trí lộng lẫy với các bao lam được sơn son
thếp vàng và chạm trổ hoa văn tinh xảo, bên trong đặt tượng của Bà. Tượng của
Bà thể hiện hình dáng của một người phụ nữ đang ngồi, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu,
bên ngoài khóat chiếc áo choàng màu đỏ, thêu kim tuyến, đầu đội mũ, tay cầm bài
vị. Hai bên Bà có tượng của hai thuộc hạ là “Thiên lý nhãn” và “Thuận phong
nhĩ”, giúp Bà nhìn xa ngàn dặm và nghe thấy tiếng kêu cứu từ ngàn dặm để kịp thời
ứng cứu.
Tại Hội quán
Ngũ Bang và Hội quán Phước Kiến, người Hoa đi lễ hầu hết các ngày trong tháng.
Nhưng ngày vía Bà (ngày 23 tháng 3 âm lịch) được xem là ngày hội lớn của cộng đồng
người Hoa ở Hội An, vào những ngày này, mọi người trong và ngoài Bang Hội đem lễ
vật và nhang đèn đến cầu cúng rất đông. Đây được xem là dịp để cộng đồng người
Hoa gặp gỡ nhau, ôn lại những chuyện đã qua, đồng thời nhắc cho lớp trẻ nhớ đến
nguồn gốc của quê hương dân tộc, đồng thời bàn bạc phương hướng giúp đỡ những
người trong Bang Hội đang gặp cảnh khốn cùng,.... Ngay từ chiều ngày 22 tháng 3
âm lịch, trong khuôn viên của Hội quán Phước Kiến và Hội quán Ngũ Bang, người
Hoa trang hoàng hàng trăm chiếc đèn lồng, cờ hiệu của ngày vía với nhiều kiểu
dáng và màu sắc rực rỡ từ trong ra ngoài. Quan trọng nhất là lễ tắm Bà và dâng
lên Bà những bộ trang phục, những đồ trang sức mới. Trong lễ tắm Bà, người ta
dùng một chiếc khăn mới, mềm, sạch nhúng vào nước và lau bụi bám trên thân tượng.
Sau đó, thay cho Bà bộ áo mới đẹp nhất được chọn trong số những bộ quần áo mà
những người đem tới dâng cúng.
Đến ngày 23
tháng 3 âm lịch, người ta tổ chức lễ chính theo nghi thức cổ truyền gắn với tập
quán của người Hoa Phước Kiến. Một số lễ vật có nguồn gốc từ tỉnh Phước Kiến,
Hoa Nam được bày biện để dâng cúng Bà như bún xào Phước Kiến, bánh bao Phước Kiến,
cơm Dương Châu, vịt tiềm bát bửu, khoai nhục,… Ngoài ra còn phải có cá, giò
heo, gà, vịt, cua đã được nấu chín và kèm theo heo quay. Buổi lễ diễn ra, tất cả
những người tham dự đều đứng nghiêm, sau đó người chủ tế và bồi tế bước vào vị
trí của mình. Lúc này chiêng trống được đánh vang, người ta dâng lên hương, rượu,
heo quay và sau đó hướng về điện thờ Bà vái lạy 3 lạy. Lúc này người chủ tế đọc
văn tế:
Duy:
Công nguyên nhị linh tứ niên, tuế thứ Giáp Thân, tam nguyệt
nhị thập tam nhật.
Thiên Hậu Thánh Mẫu bửu đản chi thời, Việt Nam Hội An Phước Kiến. Cập: toàn thể
đồng hương đẳng. Cẩn cụ: tiên hoa, sinh quả, thanh tửu, bửu bạch, hương lễ chi
nghi, trí tế… vu Thiên Hậu Thánh Mẫu chi linh.Viết:
-
Ế duy Thánh
mẫu, khải hậu thừa tiền.
-
Mẫu nghi
xưng hậu, thuỷ đức phối thiên.
-
Thần linh hiển
hách, đức bị vô biên.
-
Thiên thu trở
đậu, tứ hải hinh hương.
-
Đàm ân hạo đảng,
huệ cập Nam
biên.
-
Kiều dân tao
tị, hộ phước vô cương.
-
Hải quốc ba
bình, hóa vận mậu vu.
-
Từ hàng hóa
bị, bỉ ngạn an nhiên.
-
Phước Kiến
quán vũ, kiền thành nhĩ kiên.
-
Báo công
sùng đức, điển lễ niên niên.
-
Phục nguyện
Thánh Mẫu, biến thiết tân long.
-
Tiêu trừ tai
nạn, phong yên tức nhiên.
-
Hân phùng
thánh đản, khể thủ điện tiền.
-
Hinh hương
trù chúc, bảo hựu ngô dân.
-
Tiến dĩ sinh
lễ, hiến dĩ tiên hoa.
-
Duy thần
giám chi, lai hưởng lai cách.
Thượng hưởng[7].
Sau khi đọc văn tế xong, người ta tiến hành đốt vàng mã rồi
lại hướng về điện thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu vái tạ ba lạy, như vậy là nghi lễ đã
hoàn thành. Sau đó, người ta xin xăm, xin lộc, vay vốn Bà để làm ăn, cầu tự, cầu
tài,…
Sau phần Lễ
là phần Hội diễn ra, tiệc chiêu đãi tân khách được dọn ra trong khuôn viên của
Hội quán, đồng thời cũng diễn ra các hoạt động khác như liên hoan văn nghệ, xổ
số cầu may, bán đấu giá lồng đèn, biểu diễn múa lân sư, rồng,... để thu tiền
làm những công việc từ thiện,… Lễ vía Thiên Hậu không chỉ thu hút cộng đồng người
Hoa, người Việt ở Hội An mà còn thu hút đông đảo bà con các địa phương lân cận
cũng như du khách trong nước
và quốc tế tham dự.
Trước đây ở
Hội An còn diễn ra lễ rước kiệu Thánh Mẫu đi qua các ngõ phố trong tiếng nhạc
bát âm rộn ràng, đây là dịp để cho bà con người Hoa chiêm ngưỡng và cầu mong những
điều may mắn sẽ đến với mình và gia đình. Vào dịp này, trước những ngôi nhà của
đồng bào người Hoa được giăng đèn, kết hoa, đốt pháo, lập bàn hương án để
nghinh đón Bà rất trang trọng. Nhưng sau năm 1975, hình thức rước kiệu này dần
không thực hiện, đây là một vấn đề hết sức đáng tiếc mà đến nay vẫn chưa phục hồi
lại.
3. Thay lời
kết:
Thiên Hậu
Thánh Mẫu là vị thần bảo trợ của cư dân sông nước vùng Nam Trung Hoa. Hiện nay,
bất kỳ khu vực nào trên thế giới có người Hoa cư trú tập trung là nơi đó người
ta thờ tự Bà. Ở Hội An, tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của cộng đồng người Hoa cũng
không phải là trường hợp ngoại lệ. Trải theo thời gian, trong tín ngưỡng Thiên
Hậu của người Hoa ở Hội An đã có những nét văn hóa mới được đưa vào trong phần
Hội, tạo nên sự phong phú đa dạng của lễ hội nhưng không đánh mất đi bản sắc
văn hóa của dân tộc, đó cũng chính là sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa các
cộng đồng tộc người cùng sinh sống trên mảnh đất Hội An trong suốt các thế kỷ
qua. Hiện nay ở Hội An, ngày vía Thiên Hậu Thánh Mẫu không chỉ dành riêng cho
bà con người Hoa mà đã trở thành ngày hội chung, thu hút đông đảo dân cư Hội
An, du khách trong nước và quốc tế tham dự.
Điều cần hiện nay là phục dựng lại Lễ rước
kiệu Thiên Hậu, bởi nó không phải là một hình thức đồng bóng hay mê tín dị
đoan, mà nó là một hoạt động văn hóa của cộng đồng người Hoa, thể hiện sự tín
ngưỡng, sùng bái của họ đối với vị thần bảo trợ cuộc sống của mình. Ngày nay ở
một số quốc gia trên thế giới, chúng ta vẫn thấy hình thức rước kiệu trong lễ
hội diễn ra, cho dù họ đi qua những đại lộ rộng lớn, với những ngôi nhà cao
chọc trời nhưng vẫn không có gì là kệch cỡm, là đánh mất đi những nét độc đáo
của tôn giáo - tín ngưỡng truyền thống mà nó càng tôn vinh hơn những giá trị văn
hóa cổ truyền. Chính vì vậy, nếu phục dựng lại được lễ rước kiệu thì ngày vía
Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa tại Hội An sẽ thu hút nhiều khách du lịch
hơn, đem lại nguồn lợi kinh tế cho ngân sách địa phương hơn mà vẫn bảo tồn được
giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng người Hoa tại địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trần Văn An. Di sản
văn hóa nghệ thuật dân gian Hội An. TTQLBTDT Hội An, 2005.
2.
Cristophoro Borri. Xứ
Đàng Trong năm 1621 (Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị dịch và chú
thích). Nxb TP.HCM, 1998.
3.
Bồ tát ngoại
truyện (Dương Thu Ái – Nguyễn Kim Hanh dịch). Nxb VHTT, Hà Nội, 2003.
4.
Tô Nam
Nguyễn Đình Diêm. Minh Hương lược khảo.
Văn hóa Á Châu, 5/1958.
5.
Herri Maspero. Đạo
giáo và các tôn giáo ở Trung Quốc (Lê Diên dịch). Nxb KHXH, Hà Nội, 2000.
6.
Châu Hải. Các nhóm cộng
đồng người Hoa ở Việt Nam. Nxb KHXH, Hà Nội, 1992.
7.
Nguyễn Văn Huy. Người
Hoa ở Việt Nam. Paris ,
1993.
8.
Vương Kiến Huy, Dịch Học Kim (Chủ biên). Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc. Nxb
Thế giới, 2004.
9.
Diệp Truyền Hoa. Hội
An kim tích. Hội quán Trung Hoa xuất bản, 1997.
10.
Trần Kinh Hoà. Mấy điều
nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội An. Việt Nam Khảo cổ tập
san, sài Gòn, số 1/1961; 3/1962.
11.
Trần Kinh Hoà. Phố người
Đường ở Hội An vào thế kỷ XVII, XVIII và nền thương nghiệp của nó. Tân Á học
báo, 3(1) Tân Gia Ba, 1957.
12.
Tsai Maw Kuey. Người
Hoa ở miền Nam Việt Nam. Paris
- Thư viện Quốc gia, 1968.
13.
Nguyễn
Quốc Hùng. Vài nét về di tích trong khu
phố cổ Hội An. T/c VHNT, số 8 năm 1998.
14.
Nguyễn Chí Trung. Cư
dân Faifo - Hội An trong lịch sử. TTQLBTDT Hội An, 2005.
15.
Thích Đại Sán. Hải Ngoại
kỷ sự. Uỷ ban phiên dịch Sử liệu - Viện Đại học Huế, 1963.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét