Nguyễn Thị Pháp
Giả lớ mang
theo
Tháng năm tháng sáu về mang theo cái nắng giòn
tan giúp mẹ hong thật khô những trái bắp (ngô) được mùa. Mẹ nói bắp phơi gặp
nắng tốt bữa sau làm lớ ăn ngon phải biết! Tháng 07 tháng 08 đem bắp được phơi
khô bỏ hết vào những cái chum to để sau bếp. Tháng 9 tháng 10 khi những cơn mưa
dầm thúi đất về, mưa hoài trời lạnh, mẹ không ra đồng, mẹ khưi chum bắp ra làm
lớ. Mới nghe mẹ rang bắp bốc mùi thơm đã thấy “không chịu nổi”, đến khi mẹ đem
xay trên cối đá rào rào là lũ con không nhịn được nữa! Chúng đến ngồi xổm quanh
cái cối xay chờ mẹ thả tay quay là bốc một nắm cho vào mồm, bột bắp bay tung
tóe bị mẹ mắng thì chạy vèo, thích thú. Mẹ xay xong lớ thật mịn rồi thì lấy bát
đường đen cạo vào lớ trộn đều đổ ra cái thau đồng. đoạn mẹ bảo các con ra vườn
hái lá mít vào xúc lớ ăn. Lũ trẻ hớn hở bu quanh cái thau đồng, lấy lá mít xúc
lớ ăn. Đứa nào cũng muốn ăn tham nhưng tham không được. Ăn lớ là phải ăn từ từ
xúc nửa lưng lá mít cho vào mồm để ngấm nước bọt rồi mới nuốt. Đặc biệt khi ăn
không được nói chuyện, nói ú ớ là bị sặc lên mũi ngay! Ăn “cực khổ” như vậy
nhưng lũ trẻ rất thích. Thích vì cái hương vị thật thơm, thật bùi, thật ngọt
của lớ và nhất là ăn lớ uống nước chè xanh nóng ngon phải biết. Ăn lớ phải canh
chừng cái bụng vừa no còn chừa để uống nước, chứ ai mà ráng ăn cho no đến khi
uống nước vào là lớ từ từ nở to ra trong bụng… no chết được!
Lớ
như là món ăn đặc sản của một xóm nhỏ miền Trung quê tôi. Từ trẻ con đến người
già đều thích ăn lớ. Những đêm trăng ngồi bên mâm lớ mọi câu chuyện tâm tình
của trai gái làng lại nổ ra râm ran.
Rồi những năm tháng khốc
liệt, những người làng quê tôi không được quây quần ăn lớ dưới trăng mà tâm
tình nữa. Mẹ giả lớ vội vã gói vào ba lô cho anh lên đường ra trận. Mẹ nói gửi
lớ vào ba lô được nhiều, lớ để lâu mấy cũng được, ăn lớ có gây tiếng động đâu
mà địch phát hiện! … Thế là cả làng giả lớ gửi các anh đi, trong chiến tranh lớ
được gọi là “lương khô” (lương thực khô) đã góp phần làm nên chiến thắng!
“Lớ”
là vậy đó nhưng thời chừ biết ai đó còn nhớ về “lớ” chăng? Nghĩ vậy, một lần
cho học sinh đi cắm trại xa, tôi đã làm “món lớ” này mang theo. Đêm trăng ở đất
trại tôi mang ra cho học trò thưởng thức, tôi kể những kỷ niệm của tôi về món
lớ cho các em nghe. Bọn trẻ im lặng… một sự lặng im hiếm thấy ở lũ nhóc!... Ồ!
Thì ra các cu cậu sợ bị “sặc” như lời thầy dặn cẩn thận.
Bỗng
có một cu cậu lên tiếng.
-
Sao không gọi là “bột bắp rang xay” mà gọi là “lớ” thầy?
Ừ
nhỉ?! Cu cậu hỏi đột ngột làm tôi bối rối. Từ nhỏ giờ có ai hỏi kì cục dzậy
đâu? Chỉ là “lớ” chứ có tên gọi khác đâu!
Nghĩ vậy tôi đáp bừa:
-
Gọi “lớ” là vì món ăn đã được chế biến sang dạng khác. Bắp rang không để nguyên
hạt nhai mà xay mịn thành bột trộn đường rồi nên nó “lớ” (lơ lớ như bắp). Cả
gạo cũng vậy xay bột mịn tráng thành bánh tráng thì gọi là bánh tráng, ép thành
sợi thì gọi là bún…!
Tôi
thao thao bất tuyệt khiến lũ trẻ gật gù .
Rồi
một cu cậu khác lại nói:
-
Hay thật thầy nhỉ? Như bạn Nam ở phía Bắc vào miền Trung mình, bạn cố gắng nói
giọng Quảng nên gọi là giọng “lớ” phải không thầy? lơ lớ cũng vui thầy nhỉ?
-
………
Một
cu cậu khác lại hỏi:
-
Thầy ơi! Con đổ nước sôi vào lớ ăn cho dễ thầy nhé?
-
Không! Ngày xưa thầy và các bạn nhỏ ở làng quê chả ăn lớ kiểu ấy bao giờ!
Tôi
không giải thích được cho các em vì sao không đổ nước sôi vào lớ để “ăn cho
rồi!” Nhưng tôi biết chắc chắn rằng, ăn lớ kiểu dân gian quê tôi cũng là một
cách thưởng thức đặc biệt! Đừng để những món ăn dân gian truyền thống bị “biến
tấu”, mai mốt không còn còn biết đâu cội nguồn… “van em xin hãy giữ nguyên quê
mùa”
Huê mít
Ngoại tôi không còn nữa,
cậu tôi cũng qua đời, thế hệ các người lớn đã lần lượt ra người thiên cổ, duy
chỉ có hàng mít quanh vườn ngoại là vẫn còn ngạo nghễ đứng ru trong gió! Những
cây mít già vẫn sống đó như để chứng kiến biết bao đổi thay thăng trầm của nhà
tôi và đặc biệt các cây mít vẫn sống như để làm nhân chứng cho tuổi thơ tôi?!
Để vỗ về ôm ấp những kỉ niệm của tuổi thơ tôi, hay làm tôi ấm lòng mỗi khi
chạnh nhớ về quê ngoại.
Tôi
không biết vườn mít ngoại tôi có tự bao giờ nhưng khi tôi lớn lên biết ăn huê
mít là đã thấy cây mít nào cũng đầy những “huê”. “Huê mít” hay còn gọi là “dái
mít” là những nụ mít đơm ra độ khoảng bằng ngón tay, ngón chân cái rồi không
thể lớn nữa để thành quả mà toàn thân phủ lên những hạt lầm tấm vàng. Nếu lúc
này trẻ con không hái thì độ khoảng mươi hôm là dái mít sẽ ngã sang màu đen rồi
rụng xuống đất mất đi. Nghĩ cũng tội nghiệp cho một đời huê mít! Nhưng đối với
lũ trẻ chân quê thì dái mít là “người bạn” thú vị, là món ăn ngon được lũ trẻ
xếp vào hàng “chả” (bời vì ở quê tôi cái gì ngon nhất thường được ví với chả “ngon như chả”). Vậy dái mít được lũ
trẻ chân quê chế biến như thế nào mà đươc gọi là chả, chả dái mít?
Như
trên đã nói về dái mít, khóm mít được lũ trẻ hái trên cây cắn ăn sống với muối
tại gốc mít, dái mít có vị chát, bùi, ngọt, ăn nhanh dễ bị nghẹn. Dái mít còn
làm món chả rất cầu kỳ như một “đặc sản” của trẻ em thôn quê. Dái mít hái xuống,
rồi lấy dao xếp cắt ra thành từng lát mỏng đoạn ướp muối sống vừa ăn, ớt xanh giã
nhuyễn ướp với muối sống. Chưa đủ, lũ trẻ ra vườn cắt thêm mấy lá hẹ tươi cắt
nhỏ trộn đều các hỗn hợp rồi lấy lá nghệ gói lại, như những chiếc bánh chưng
nhỏ, bên ngoài bọc một lớp lá chuối, lấy dây chuối buộc lại thật chặt. Xong lũ
trẻ hì hục bê cái cối xay nặng trịch lên đè vào các gói chả dái mít. Chúng tôi đi
học hay đi chăn trâu… đến trưa về lại kéo chiếc cối xay lên để thưởng thức
hương vị chả dái mít. Gói chả dái mít không nấu, không nướng chỉ để cho cối xay
nặng đè lên thế mà thật hấp dẫn. Khi mở gói lá ra, chả dái mít vẫn có mùi thơm.
Nước từ gói chả ứa ra ướt đẫm (chắc là nước của muối, của dái mít). Cả bọn xúm
vào, mỗi đứa bốc một miếng cho vào mồm nhai rau ráu. Bọn nó xuýt xoa vì cay, vì
chát, vì mặn, vì nồng của ớt xanh, dái mít, muối sống, lá hẹ… tất cả chừng ấy
vị ngào cùng dịch vị lại tạo thành chất ngọt ngọt trong khóe lưỡi hay hay! Cứ
thế, bọn trẻ cứ “hít hà, hít hà” ăn tới, ăn cho đến khi chỉ còn chiếc lá không
, có đứa thèm liếm luôn cả nước ướt ướt của lá (khiến tôi nhớ đến chuyện ông
thầy đồ dạy học trò chữ nhất trên đĩa mật ong). Rồi cả bọn kéo nhau ra giếng
làng ực đầy bụng nước, thế mà cái lưỡi vẫn còn chát chát, cay cay, mặn nồng!
Ngon
quá, mai làm tiếp nữa nghe!
Cứ
thế, bọn trẻ ngày nào cũng hì hục làm chả dái mít cho đến hết mùa mít. Coi bộ
lũ trẻ mê chả dái mít hơn mít chín, hơn hạt mít lùi !!!
Những
gói chả dái mít theo chân lũ trẻ chân quê tôi ra đồng, vào lớp học, lên rùng…
Cả xóm đứa nào cũng biết làm chả dái mít và mê ăn! Tôi biết những gói chả dái
mít ngày ấy các anh trai làng làm ra còn để “thay lời muốn nói” với các chị gái
làng nữa cơ. Rồi dạo ấy, anh tôi và một số anh chị khác trong làng đi xa biền
biệt không trở lại quê nhà có gửi thư về nhắn nhủ “mùa này mít đã ra huê chưa,
nhớ ăn hộ giùm anh mấy gói, nhớ lắm!”
Lũ
trẻ không biết gói chả dái mít quê hương đã trở thành kỉ niệm, là máu thịt của
tình yêu nhớ quê nhà trong các anh chị trai làng hồi ấy!
Rồi
tôi cũng lớn lên cùng lũ trẻ, mỗi đứa mỗi nơi, mỗi cảnh, mỗi nỗi niềm…Duy chỉ
có những hàng mít quanh vườn ngoại tôi là không thay đổi. (cho dù chúng có già,
to lớn hơn xưa, có cây bị bom phứt đầu, chúng lại chỉa ra nhiều cái đầu khác
trông càng oai vệ hơn). Đặc biệt, các dái mít vẫn không thay đổi, vẫn khêu gợi,
chạm đến êm như nhung và hãy lắng nghe sẽ thấy mùi hương thoảng nhẹ như mùi con
gái.
Có
lần anh bạn thành phố nghe tôi say sưa kể về món chả dái mít, kỉ niệm tuổi thơ
tôi, anh đã nằng nặc đưa cho bằng được vợ con anh về trong kỳ nghỉ phép để cùng
lũ trẻ quê làng tôi nhâm nhi hương vị chả dái mít! Anh bảo rằng: một món chả
không có trong danh mục món ngon nhưng hương vị đậm đà đặc trưng, quả là sự
sáng tạo của trẻ làng quê bạn!
Chả
dái mít, món ngon của tuổi thơ quê làng, món ngon đã trở thành kỉ niệm, món
ngon của hương vị dân dã, của sự sáng tạo, sự hợp quần trong sáng chế, trong
thưởng thức của lũ trẻ! Bỗng tôi ước gì mình được là nghệ sĩ, tôi sẽ cất lên
tiếng đàn ngân nga vê món chả dái mít
quê nhà, như ai đó đã luyến lưu lời ca kỉ niệm tuổi học trò: “cốc, ổi, me,
xoài… những món ngon của thời trẻ nhỏ ở quê xưa”..
… Ôi quê làng, ta nhớ quá
đi thôi!
Trả canh đủm
bầu
Từ giã chốn phồn hoa đô thị tôi lại về bên dòng
sông quê ngoại nằm trên chiếc võng dừa, gối hai tay lên trán lơ đãng nhìn trời…
Có ngọn gió nào hiu hiu đang gợi ký ức tuổi thơ tôi hiện về…
Cũng
trên chiếc võng này năm xưa ngoại đã hát ru tôi ngủ:
Bồng em mà
bỏ vô nôi
Để mẹ đi
chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ
Quán, chợ Cầu
Mua cau Bất
Nhị, mua trầu Hội An
Hội An bán
gốm, bán than
Kim Bồng
bán vải, Nồi Rang bán hành.
Chỉ
nghe lời bài hát ru đủ biết bước chân tảo tần của mẹ tôi suốt quãng đường dài
buôn thúng, bán bưng các loại! Tần tảo là vậy, vất vả là vậy nhưng cuộc sống
của gia đình tôi, của những người dân quê tôi thuở ấy vẫn cơ cực:
Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn
theo sau
Chạy chợ
theo mùa, đắp đổi qua ngày. Cuộc sống người dân quê chủ yếu bám víu vào ruộng
vườn, sông nước “trời cho”! Tất cả đều do lao động mà nên cả. Làm vườn theo
mùa, mùa nào quả ấy và “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Về khoản này thì mẹ tôi
“khéo ơi là khéo”! Tháng 5. tháng 6 phát hoang bụi rậm, mẹ xếp các cành cây gai
tre phẳng phiu. Tháng 11, tháng chạp kéo ra sửa lại hàng rào quanh vườn, những
cây nào to lớn, chắc chắn thì để làm giàn bầu. Trước cổng tre nhà, mẹ đào hai
hố to cho đầy phân chuồng, rác, lá cây,lá tre ủ sẵn cho mục. Đến tháng chạp mẹ thả vào
đó mấy hạt bầu rồi đậy lại. Tôi đi học, không để ý hạt bầu nảy mầm lúc nào,
thoáng chốc thấy nó đã bám cành gai tre leo lên vươn ra những chiếc râu dài
ngạo nghễ… Rồi khi tôi vui chơi những ngày Tết, quên nó, thì nó đã bò phủ rợp
cả giàn tre trước sân mà (mẹ tôi đã làm sẵn chỗ cho nó tự bao giờ), nó xòe
những chiếc lá to hơn bàn tay, tôi thường thấy các bà mẹ đi chợ quê bứt năm,
mười lá bỏ vào trong rổ để đựng dầu, chè, mắm muối ở chợ. Không chỉ có lá, nó
đã ra hoa và kết quả tự bao giờ không ai hay biết. Ngộ lắm, chỉ qua vài đêm
thấy nó đã thòng dài lủng lẳng dưới giàn, người lớn đi không chú ý nó va vào
đầu ngay. Rồi đến khi nó thòng xuống cả
mét tôi có thể ôm nó mà hôn, mà chơi thậm chí tôi tập viết trên thân bầu, vẽ
những hình ngộ nghĩnh lên nó nữa! Lúc tôi vẽ nhựa nó ứa ra nhưng rồi lại lành
nhanh chóng. Chính vì thế, mà nhiều khi mẹ tôi không hái cả quả bầu, chỉ cắt
một “đủm” rồi cứ để nó lơ lửng trên giàn, bà con hàng xóm ai dùng thì cắt tiếp
“đủm” nữa … Những “đủm” bầu được cắt mỗi ngày mẹ tôi đã chế biến đủ các món.
Nào bầu xào, bầu trộn, bầu luộc, bầu nấu canh… món nào từ bầu cũng hấp dẫn cả.
Bầu xào thì mẹ xắc bầu dài bằng lóng tay, mỏng độ một phần hai lóng tay, xong
khử dầu phụng, phi hành cho thơm, đổ bầu vào chảo dầu nóng đảo qua đảo lại độ
một phút nêm muối, thêm chút bột ngọt, rồi bắc xuống bếp, rắc hành lá, ăn liền.
Bầu trộn thì
xắc bầu mỏng, dài, bóp sơ ít muối, vắt lại cho mềm. Thịt heo ba chỉ xắc mỏng,
tôm đất xắc khúc, tao thấm chín, nêm gia vị đổ vào trộn đều với bầu, rắc ít
hành lá xắc nhỏ, xúc bánh tráng ăn rất ngon.
Bầu luộc thì
xắc lát dày hình tam giác, bắc chảo nước sôi thả bầu vào luộc độ một hai phút
vớt ra để ráo, chấm mắm nêm. Những món bầu luộc, bầu trộn, bầu xào thì sau này người dân quê tôi chế biến thêm chớ ngày
nhỏ tôi chỉ thường được mẹ cho ăn canh bầu các kiểu. Ngày nào mẹ mò được con
hến thì mẹ nấu cho trả canh bầu hến.(Hến nấu sôi, bóc vỏ lấy ruột đổ vào nước
hến sôi, bỏ bầu vào nêm thêm chút muối để độ một hai phút thì bắc xuống bỏ hành
lá xắc nhỏ, ăn nóng rất thơm ngon.) Ngày nào mẹ bắt được con tôm thì nấu trả
canh tôm bầu (Mẹ giả tôm chung với củ hành, mẹ tao sơ tôm qua chảo dầu nóng, đổ
nước sôi vào, bỏ bầu đã xắc vào, nêm muối, bắt xuống bếp, ăn nóng.) Ngày nào mẹ
bắt được con cá sông thì mẹ nấu cho canh bầu cá (Mẹ làm sạch cá, luộc cá chín,
nêm gia vị vào cá đã luộc rồi cho vào chảo dầu nóng đảo qua đảo lại, cho nước
sôi vào rồi cho bầu vào sau đó cũng ăn liền cho nóng)… Có ngày không bắt được
con gì, mẹ nấu canh bầu nêm mắm cái, luộc khoai lang, anh em chúng tôi ăn cũng
ngon lành. Trã canh bầu các loại của ngày xưa mẹ đã nuôi anh em chúng tôi khôn
lớn, trưởng thành. Ngày thơ ấu con ăn
canh bầu thấy ngon vì hương vị của nó, vì đói, vì thiếu dinh dưỡng… Con đâu
biết còn vì công nhọc nhằn và tình yêu con của mẹ nữa mẹ ơi!
Con lại về
đây, bên giàn bầu năm xưa của mẹ, các thế hệ bầu vẫn tiếp tục lớn lên theo mùa
và người ta vẫn tiếp tục ăn bầu và chế biến bầu nhiều kiểu để thưởng thức (bầu
nấu với hột vịt lộn.) cho lạ vì cái lưỡi ăn ngon của họ bị bão hòa mẹ ạ! Dù bầu
có được chế biến thêm những kiểu gì con vẫn yêu nhất trã canh bầu năm xưa của
mẹ. Trả canh mẹ chắt chiu bằng những nguyên liệu quê hương!
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét