Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

Chào hỏi trong hát huê tình Đất Quảng


Võ Khoa Châu



Chào hỏi
trong hát huê tình đất Quảng                                    

                                                                                                         


            Trong những thể cách hát giao duyên, tùy theo mỗi vùng – miền, hoặc mỗi dân tộc mà có những tên gọi khác nhau. Chẳng hạn như cò lả là điệu hát lả lướt giành cho trai gái hát đối đáp qua lại rập ràng, phối họa của từng nhóm tương hợp. Nếu như hát đố lại là sự ứng xử, giải trí mang tính tập tục địa phương về sự kiện, sự vật, sự việc, đồ dùng… thì trong khi đó, hát xoan (hát xuân) vừa được UNESCO công nhận hát xoan Phú Thọ là di sản cần bảo vệ khẩn cấp (Trưa ngày 24-11-2011 tại Indonesia) là một loại hình dân ca mang tính lễ nghi, phong tục luôn gắn liền với những lời tán tụng vụ mùa thu hoạch. Hình thức của một xoan Phú Thọ, phản ảnh nét tín ngưỡng địa phương, và thường tổ chức vào mùa Xuân. Đối với hát đúm cũng là thú vui của trai gái nơi đồng quê, xóm mạc, cũng diễn ra vào những dịp hội xuân, nhưng lại hát lên những lời trao duyên dưới dạng thữc  đối đáp tỏ tình. Trong khi đó, nếu như hát giặm lại là bè đệm nối tiếp, chắp liền vận – vần. Sự đan xen , hô ứng nhịp nhàng, thì hát huê tình, ngoài tính cách giao duyên, chào hỏi, nói về điễn tích, tuồng xưa, về lệ làng, phong tục, lễ nghi, ướm tình tỏ cảnh, khiêm tốn dịu dàng, nêu cao đạo lý, cách ứng xử…, đòi hỏi người hát phải thông thuộc kinh sử, mang tính pho tuồng soạn sẵn, hoặc hát mép, bắt quàng ứng đối nhanh nhạy…Ngoài ra, trong hát huê tình còn có những lời trêu chọc, khích bát, thách thức cao ngạo, biếm hài…nhưng tất cả đều mang tính ẩn dụ, vui hòa, gợi mở để tạo thêm sự hứng khởi, đồng điệu với không gian, cảnh tình đối đáp.
Như vậy, nói một cách tổng quát, huê tình  là hình thức hát đối đáp, giao duyên giữa nam nữ, một thể loại sinh hoạt trong dân gian. Và, chúng ta hãy thử đi tìm câu chào hỏi gợi mở trong những cuộc hát ý vị ấy.
                        Lời chào ngửa nón mà bưng
                        Bâng khuâng trong dạ nửa mừng, nửa lo.
Mừng quá đi chớ, tại sao lại không mừng được. Lòi chào cao hơn mâm cổ mà. Nhưng lo ở cái chỗ là, không biết rồi sau câu chào đó, họ lại hỏi những câu gì. Nếu gặp những câu hiểm hóc, cao ngạo, hoặc thách thức quá khó, thì không lo làm sao được, trong giữa đám ba quân.
                        Lời chào ngửa nón mà bưng
                        Bạn chào ai không biết, đây cũng xin dưng lời chào.
Tính thể hiện đón nhận lời chào qua hình thái cách điệu sự ứng xử đưa hai tay đỡ ngửa chiếc nón đội đầu, đựng câu tình nghĩa, đồng thời xin đáp lại lời chào trân trọng ấy, là nét đẹp vừa duyên dáng, vừa nói lên ý nghĩa của chiếc nón quê nhà. Hình ảnh luôn gắn liền với cuộc sống trong mọi trường hợp. 
Đối với lớp nho sĩ, họ thường mượn câu  kinh điễn  để làm câu hát mở. Xem đây như là sự dẫn nhập, tiếp theo sau là dịch nghĩa của câu chữ, hoặc có thể làm câu bản lề để diễn ý:

                        Bất kỳ nhi ngộ vô cố dắc tương phùng
                        Anh hùng lại gặp anh hùng một khi
                        Trước chào người bạn cố  tri
                        Sau chào các nho sĩ hội xuân về đây tựu trường.
Trường ở đây để chỉ trường hát, nơi sân chơi đối đáp, nơi diễn ra cuộc hội ngộ. Có khi còn gọi là tràng. Như đệ nhất tràng, đệ nhị tràng, đệ tam tràng…chẳng hạn, để chỉ những tập sách, hoặc vở đã chép câu hát phân đoạn soạn trước theo pho tuồng, điễn lệ.
Trong trường hợp ấy, người hát cũng phải biết vận dụng một câu chữ Hán, chẳng hạn: Hữu bằng tự viễn phương lai. Bạn bè từ phương xa lại, để rồi hát tiếp, bày tỏ nguyên cớ gặp gỡ:
                        Ham vui mới đến cửa lâu đài chơi xuân
                        Dường xa tôi mới dời chân
                        Đó buông tiếng ngọc, đây phải dâng lời vàng.
Câu chào cũng có thể bắt nguồn dụng ý lung khởi, nhưng nói lên sự đồng điệu tương hòa, trên dưới tương âm
                       
                        Yên yến vu phi thượng hạ kỳ âm
                        Tôi xin chào bạn đồng tâm một lời
                        Bạn ở một nơi, tôi ở một nơi
                        Trước chào hết thảy, sau tôi có đôi lời hỏi thăm
                        Buông lời dám hỏi tri âm
                        Nghi gia, nghi thất sắt cầm thế nao?
                        Thung huyên hai cụm thấp cao
                        Trong dòng đường bệ, mấy hào anh em?

Sắt cầm là cây đàn sắt và cây đàn cầm. Trong đám cưới, ta thường nghe thấy câu sắt cầm hòa hiệp, nghĩa là hai cây đàn sắt cầm cùng hòa điệu với nhau.
Thời Trung Quốc xưa, cây đàn sắt có 50 dây. Thơ Lý Thương Ẩn (813 – 858), hai câu mở của bài Đàn sắt: (Cầm sắt vô đoan ngũ thập huyền/ Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.( Không hiểu vì sao cây đàn sắt có 50 dây. Mỗi dây tương ứng với mỗi trục hoa 4 mùa). Về sau, cây đàn sắt được chỉnh biên còn lại 25 dây. Đàn cầm thời cổ có 5 dây, về sau chỉnh tăng thành 7 dây. Hai cây đàn này thường đánh hòa nhịp với nhau. Yểu điệu thục nữ, cầm sắt vi chi ( Kinh Thi). Người thiếu nữ dịu dàng, hiền thục làm bạn với nhau như tiếng đàn sắt cầm. Sắt cầm gượng gãy tiếng đàn/ Dây uyên kinh dứt, phím loan ngại chùng. ( Chinh phụ ngâm)
Về hai chữ Thung, Huyên, thực ra phải nói là Xuân Huyên mới phải. Trong Hán tự, chữ Xuân tương tự giống như chữ Thung. Người xưa dùng hình ảnh cây xuâncỏ huyên (còn gọi là rau kim châm), hai từ này để chỉ cha mẹ.
Theo sách Trang Tử, từ thời thượng cổ, Cây Xuân là loại cây sống lâu. Tám ngàn năm mới là một mùa xuân của nó. Rồi tám ngàn năm lại là một mùa thu. Chữ Xuân để chỉ người cha, và mong nguyện ước trường thọ.
Huyên là một loại cỏ sống lâu năm. Từ này dùng để chỉ bà mẹ. Người xưa quan niệm rằng, ăn cỏ huyên, thi giải được nỗi buồn phiền. Vì thế. Cỏ này còn có tên là vong ưu thảo. Việc trồng cỏ huyên gần chỗ ngủ của các lớp người tiền bối, là một hình ảnh để nhớ mẹ.
Sự vận dụng trong một trường hợp khác

Đầu chi đào phi diễn huỳnh duyên
                        Nghe tiếng bạn chào ta hỡi liền vâng
                        Cửa lầu đài gặp khách chơi xuân
                        Tôi xin chào lại đáp chơn ân chàng
                        Trăng rằm rực rỡ chói chang
                        Thung huyên hai cụm ngọn vàng xuân xanh
                        Cội bền tươi tốt ngọn cành
                        Trong dòng đường bệ, bốn nhành nở đua.
Nhiều khi người hát có thể dùng một điển tích. Sự việc ấy cũng diễn ra bình thường đối với các bậc túc nho. Cây đào non tơ, lá xanh  duyên Tấn Tần hiệp phối xe dây xích thằng:
                        Đào chi yêu yêu kỳ diệp Tấn Tần
                        Buông lời hỏi bạn, chỉ Xích Thằng xe chưa?
                        Đã từng hoa nguyệt gió mưa
                        Hay đài lê chưa phá kính, bạn phải thưa cho tường

Khi cánh nam giới dùng câu chữ điển lệ lật ra từ Kinh Thi, thì bên cánh nữ lưu cũng phải thông thuộc, biết rút ra những câu trong Kinh Thi ấy để đối dáp lại. Rõ ràng đây là sự hô ứng đầy thú vị. Một cuộc chơi văn chương hào hứng:
                        Phiếu hữu mai kỳ thiệt thất hề (*)
                        Cầu ngã thứ sĩ, chưa định bề thất gia
                        Chưa từng giỡn nguyệt, chơi hoa
                        Đài lê chưa phá kính, còn dợi khách yên hà ghé sang

Tấn – Tần là tên của hai nước thời Xuân Thu (Trung Quốc). Theo Tả truyện, Huệ Công nước Tấn phủ ước với nước Tần, bị nước Tấn đánh bắt được. Huệ Công phải đem thái tử là Ngữ làm con tin ở nước Tấn. Mục Công nước Tấn gả con gái là Hoài Danh cho thái tử Ngữ. Từ đó, năm đời liên tiếp, con cháu hai họ cưới gả cho nhau, đối xử hòa thuận. Điển lệ Tấn – Tần  nói về mối nhân duyên đẹp đẽ, tình thông gia hòa thuận êm ấm.
Những cụm từ xích thằng (sợi chỉ đỏ), hoặc ông Tơ, bà Nguyệt, Trăng già, Nguyệt lão. (ông già ngồi dưới trăng) đều là điển tích nói về hôn nhân. Theo sách Tục u quái, thời nhà Đường (Trung Quốc), có người tên là Vi Cố, khi đi cầu hôn, thấy một ông già ngồi dưới trăng, đang mở túi vải, kiếm sổ sách và đang xe một sợi chỉ hồng. Vi Cố thấy vậy bèn hỏi, thì được ông lão trả lời là dây chỉ xe duyên vợ chồng. Vi cố xin được biết người vợ sau này của mình. Nghe xong, mặc dầu anh không tin, nhưng về sau là sự thật.
Thường thường, trong câu hát, các bậc sĩ hiền đều lấy từ trong Kinh Thi. Đây là một trong nhiều dẫn chứng- Phiếu hữu mai kỳ thực thất hề, kỳ thực tam hề) Mơ rụng xuống còn lại 7 phần, rồi còn ba phần), Ý nói sự xuân xanh mỗi ngày một muộn, một tàn dần.
Sau đây là một câu hỏi mang tính chung chung, khi gặp nhau tại tràng hát:
Phụ mẫu sở sanh, phụ mẫu hề sở định. Cha mẹ sinh ra ta, thì cha mẹ định đoat chuyện (chồng vợ) cho ta. Lấy câu ấy làm câu mở để rồi hát tiếp
                        Gánh cang thường chờ lịnh mẹ cha
                        Tình cờ bướm mới gặp ba
                        Chẳng biết lòng em cao rộng định mà làm sao?

                        Thiên tử mạng ngã tường
                        Ở nhà cha mẹ cũng thường dạy ta
                        Xin cho cầm sắt điều hòa
                        Thì cha với mẹ cũng định mà cho con.

Bậc nho sinh lãng tử thường dạo chốn non bồng nước nhược. Đến  những nơi cảnh đẹp để vui thú yên hà. Bỗng một hôm nghe tin quê nhà mở hội, bèn lui gót lãng du. Đến dự hội, vừa tự giới thiệu khéo léo thân thế, vừa cất tiếng chào:
                        Bấy lâu vui thú non bồng
                        Tai nghe mở hội dục lòng ra đi
                        Lăm xăm bước xuống trường thi
                        Mở lời chào hết đông tây nội trường.

Để chứng tỏ mình cũng là người biết chút ít văn chương, cánh nữ bèn vận dụng câu thơ Kiều “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” để nói lên cảnh xuân vui tràn ngập, khách du xuân rộn ràng. Đào lan xin chào hương tình ong bướm:
                        Đầy đường gia cảnh đưa người chơi xuân
                        Cảnh du hồ gặp khách du xuân
                        Đào lan mở miệng, bướm dưng hương màu.
Tự giới thiệu thân thế để bày tỏ tính hiếu ngày đêm chăm chỉ cửa Khổng, sân Trình, nấu sử sôi kinh. Dụng hình tượng nghiêng tai, và gọi các chị em là quần nga. Lời chào tế nhị nho nhã:
                        Ngày sáu khắc sân Trình đọc thong thả
                        Đêm năm canh màn Khổng vén ra
                        Ngiêng tai nghe hội quần nga
                        Lịnh tiêu từ giã bôn ba tựu trường
                        Mở lời chào hết thơ hương
                        Sau thưa cùng Nguyệt lão, lập đường gió trăng.

Sự duyên dáng và nhẹ nhàng của đào liễu đón chào mời khách thơ hương, biết dòng nhơn nghĩa, nên muốn  trao duyên tơ hồng:
                        Liễu vương mây đón khách
                        Đào mở miệng chào người
Chốn non tiên thỏ đợi sương rơi
Buông lời hỏi nguyệt, nguyệt đổi dời thế nao?
Thấy dòng nhơn nghĩa muốn trao
Phụ mẫu còn tại thế, không biết đào còn mấy xuân?
           
            Mượn cảnh gió trăng ngàn - chim vui hót làm ý mở, rồi sau đó là tỏ lời giải đáp những điều khách hỏi. Trả lời một cách rành rẻ đầy đủ về bản thân, gia thế, sức khỏe của mẹ cha, để xin giao loan chắp mối:

                        Gío đón khách đưa cây phưởng phất
                        Chim chào người bên núi lăng xăng
                        Buông lời tỏ với gã Hằng
                        Thỏ còn ẩn bóng đợi trăng bấy chầy
                        Thung huyên hai cụm sum vầy
                        Trổ cành đơn quế, thiệt rày mười lăm xuân
                        Xin cho phụng nọ gặp lân
                        Giao loan chắp mối sắt cầm bền dây

Ta có thể thấy rằng, những câu hát huê tình ở đây được lập nên bởi các bậc túc nho, thông thạo kinh điển. Biết vận dụng một cách sâu rộng. Điều đó chứng tỏ sở học uyên thâm. Ví dụ như mượn bài thơ cổ của Trung Quốc để làm đề tựa. Lấy hình ảnh đôi chim thư – cưu, một loài chim luôn sống bên nhau, không bao giờ cách rời. Chúng luôn sóng đôi dưới nước. Chim trống và chim mái không hề lả lơi: Lật ra từ Kinh Thi:”Quan quan thư cưu tại hà chi châu/ Yểu điệu thục nữ quân tử hữu cầu” ( Ríu rít chim thư cưu kêu ngoài bãi sông. Người con gái yểu điệu sánh vai cùng bậc quân tử)
Sự cách điệu qua những tiếng phò mã, trạng nguyên, dùng trong các trường hợp chào hỏi. và các tuồng tích của Trung Quốc xưa. Việc này cũng rất dễ hiểu. Bởi vì đây cũng là một cách truyền bá văn hóa qua vần vè, điển tích, diễn hát. Những bổn tuồng ấy vẫn cứ theo dòng thời gian nối nhịp huê tình:
           
            Trước chào quan phò mã
            Sau hỏi gã trạng nguyên
            Làm trai mà đến cửa quyền làm chi?
            Hỏi chàng nói đặng một khi
            Để ta sắm sửa lễ nghi ra mừng
            Nhược bằng chàng nói không thông
            Tìm thầy học nữa, kẻo uổng công danh bạn cười

Chào trước, hỏi sau là sự tế nhị trong cách ứng xử. Câu trả lời cũng tương xứng với cách dùng từ, một hình thức phối họa ngôn ngữ, và mang tính pho tuồng soạn sẵn, đã thuộc lòng. Do đó mới có việc hát cặp, hát đôi. Nếu chẳng may, trong cuộc chơi không có người hát lại, thì còn gì là thú vị nữa. Cánh đàng trai dùng chữ mỗ trong câu hát đối: Trạng nguyên là mỗ, phò mã là ta/ Tai nghe có giặc Ô Qua loạn trào/Làm trai ai chẳng học đào/Đến cửa quyền giỡn nguyệt, trước vào thiên thai/Đôi ta thiệt đã anh tài/Ta đà đáp đặng, mở cửa ngoài ta chơi. Câu hỏi có thể là câu dị bản, nhiều trường hợp tương tự của sự mở lời chào:
Trước chào phò mã, sau xin hỏi đôi câu
                        Khổng Tử Tôn Châu hà cố.
                        Mạnh Tử bất Tôn Châu
                        Nam nhơn đối đặng, thiếp làm dâu trọn đời

                        Trước dưng lời thục nữ, sau đáp lại đôi câu
                        Khổng Tử sanh châu thế cố, nãi tôn châu
                        Thầy Mạnh Tử sanh đời liệt quốc, biết đâu mà nhường
                        Thiệt ta làu thuộc kinh quyền
                        Anh đà đáp đặng, nữ hiền kết duyên.

            Một bối cảnh diễn cảm chào dưới dạng  mời trước, nhập đề vài câu , trước khi chào với ý tứ trực khởi,  ở ngoài xa mà đã nghe tiếng hò của người con gái:
                                 Gặp nhau một chút nên duyên
       Xin mời bên đó cất lên giọng hò
                              Ở ngoài xa tôi nghe tiếng bạn hò
                               Cách sông tôi cũng lội, cách đò tôi cũng sang
                               Tới đây, tôi chào hết bạn vàng
                               Chào người thục nữ, chào nàng thuyền quyên
           
            Rất hiếm thấy lời chào trách móc. Nhưng không phải là không có. Nhẹ nhàng mà sâu lắng. Khéo léo và ý tứ. Khiêm nhường một cách thiện cảm:
    Gặp anh sao chẳng hỏi, chẳng chào
              Hay là em đã có chốn sang giàu hơn anh ?
Nếu như miếng trầu là đầu câu chuyện, thì đối với ứng xử, giao tiếp, lời chào cao hơn mâm cổ là nét văn hóa truyền thống, thanh lịch. Rất nhiều trường hợp mà khi gặp nhau, chúng ta dùng một câu hỏi để thay cho một câu chào. Những việc ấy đã trở thành quy ước bất thành văn.  Trong sân chơi hát huê tình, lời chào hỏi cất lên được xem như là chiếc chìa khóa đẻ mở cánh cửa giao duyên, đối đáp.
--------------
(*) Giải thích những điển tích và dịch nghĩa các câu chữ Hán, từ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam - Nxb Hà Nội, 1978
an nam 5.tif
 
                    


Không có nhận xét nào: