Võ Khoa Châu
Chào hỏi
trong hát huê tình đất Quảng
Trong
những thể cách hát giao duyên, tùy theo mỗi vùng – miền, hoặc mỗi dân tộc mà có
những tên gọi khác nhau. Chẳng hạn như cò
lả là điệu hát lả lướt giành cho trai gái hát đối đáp qua lại rập ràng,
phối họa của từng nhóm tương hợp. Nếu như hát
đố lại là sự ứng xử, giải trí mang tính tập tục địa phương về sự kiện, sự
vật, sự việc, đồ dùng… thì trong khi đó, hát
xoan (hát xuân) vừa được UNESCO công nhận hát xoan Phú Thọ là di sản cần
bảo vệ khẩn cấp (Trưa ngày 24-11-2011 tại Indonesia) là một loại hình dân ca
mang tính lễ nghi, phong tục luôn gắn liền với những lời tán tụng vụ mùa thu
hoạch. Hình thức của một xoan Phú Thọ,
phản ảnh nét tín ngưỡng địa phương, và thường tổ chức vào mùa Xuân. Đối với hát đúm cũng là thú vui của trai gái nơi
đồng quê, xóm mạc, cũng diễn ra vào những dịp hội xuân, nhưng lại hát lên những
lời trao duyên dưới dạng thữc đối đáp tỏ
tình. Trong khi đó, nếu như hát giặm lại là bè đệm nối tiếp, chắp
liền vận – vần. Sự đan xen , hô ứng nhịp nhàng, thì hát huê tình, ngoài tính cách giao duyên, chào hỏi, nói về điễn
tích, tuồng xưa, về lệ làng, phong tục, lễ nghi, ướm tình tỏ cảnh, khiêm tốn
dịu dàng, nêu cao đạo lý, cách ứng xử…, đòi hỏi người hát phải thông thuộc kinh
sử, mang tính pho tuồng soạn sẵn, hoặc hát
mép, bắt quàng ứng đối nhanh
nhạy…Ngoài ra, trong hát huê tình còn
có những lời trêu chọc, khích bát, thách thức cao ngạo, biếm hài…nhưng tất cả
đều mang tính ẩn dụ, vui hòa, gợi mở để tạo thêm sự hứng khởi, đồng điệu với
không gian, cảnh tình đối đáp.
Như vậy, nói một cách
tổng quát, huê tình là hình thức hát đối đáp, giao duyên giữa nam
nữ, một thể loại sinh hoạt trong dân gian. Và, chúng ta hãy thử đi tìm câu chào
hỏi gợi mở trong những cuộc hát ý vị ấy.
Lời
chào ngửa nón mà bưng
Bâng
khuâng trong dạ nửa mừng, nửa lo.
Mừng quá đi chớ, tại sao
lại không mừng được. Lòi chào cao hơn mâm
cổ mà. Nhưng lo ở cái chỗ là, không biết rồi sau câu chào đó, họ lại hỏi
những câu gì. Nếu gặp những câu hiểm hóc, cao ngạo, hoặc thách thức quá khó,
thì không lo làm sao được, trong giữa đám ba
quân.
Lời
chào ngửa nón mà bưng
Bạn
chào ai không biết, đây cũng xin dưng lời chào.
Tính thể hiện đón nhận
lời chào qua hình thái cách điệu sự ứng xử đưa hai tay đỡ ngửa chiếc nón đội
đầu, đựng câu tình nghĩa, đồng thời xin đáp lại lời chào trân trọng ấy, là nét
đẹp vừa duyên dáng, vừa nói lên ý nghĩa của chiếc nón quê nhà. Hình ảnh luôn
gắn liền với cuộc sống trong mọi trường hợp.
Đối với lớp nho sĩ, họ
thường mượn câu kinh điễn để làm câu hát mở. Xem đây như là sự dẫn
nhập, tiếp theo sau là dịch nghĩa của câu chữ, hoặc có thể làm câu bản lề để
diễn ý:
Bất kỳ
nhi ngộ vô cố dắc tương phùng
Anh
hùng lại gặp anh hùng một khi
Trước
chào người bạn cố tri
Sau
chào các nho sĩ hội xuân về đây tựu trường.
Trường ở đây để chỉ trường hát, nơi sân chơi đối đáp, nơi diễn ra
cuộc hội ngộ. Có khi còn gọi là tràng. Như
đệ nhất tràng, đệ nhị tràng, đệ tam
tràng…chẳng hạn, để chỉ những tập sách, hoặc vở đã chép câu hát phân đoạn
soạn trước theo pho tuồng, điễn lệ.
Trong trường hợp ấy,
người hát cũng phải biết vận dụng một câu chữ Hán, chẳng hạn: Hữu bằng tự viễn phương lai. Bạn bè từ
phương xa lại, để rồi hát tiếp, bày tỏ nguyên cớ gặp gỡ:
Ham vui
mới đến cửa lâu đài chơi xuân
Dường
xa tôi mới dời chân
Đó
buông tiếng ngọc, đây phải dâng lời vàng.
Câu chào cũng có thể bắt
nguồn dụng ý lung khởi, nhưng nói lên sự đồng điệu tương hòa, trên dưới tương âm
Yên yến
vu phi thượng hạ kỳ âm
Tôi xin
chào bạn đồng tâm một lời
Bạn
ở một nơi, tôi ở một nơi
Trước
chào hết thảy, sau tôi có đôi lời hỏi thăm
Buông
lời dám hỏi tri âm
Nghi
gia, nghi thất sắt cầm thế nao?
Thung
huyên hai cụm thấp cao
Trong
dòng đường bệ, mấy hào anh em?
Sắt cầm là cây đàn sắt và
cây đàn cầm. Trong đám cưới, ta thường nghe thấy câu sắt cầm hòa hiệp, nghĩa là hai cây đàn sắt cầm cùng hòa điệu với
nhau.
Thời Trung Quốc xưa, cây
đàn sắt có 50 dây. Thơ Lý Thương Ẩn (813 – 858), hai câu mở của bài Đàn sắt: (Cầm sắt vô đoan ngũ thập huyền/ Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.( Không
hiểu vì sao cây đàn sắt có 50 dây. Mỗi dây tương ứng với mỗi trục hoa 4 mùa).
Về sau, cây đàn sắt được chỉnh biên còn lại 25 dây. Đàn cầm thời cổ có 5 dây,
về sau chỉnh tăng thành 7 dây. Hai cây đàn này thường đánh hòa nhịp với nhau. Yểu điệu thục nữ, cầm sắt vi chi ( Kinh
Thi). Người thiếu nữ dịu dàng, hiền thục làm bạn với nhau như tiếng đàn sắt
cầm. Sắt cầm gượng gãy tiếng đàn/ Dây
uyên kinh dứt, phím loan ngại chùng. ( Chinh phụ ngâm)
Về hai chữ Thung, Huyên, thực ra phải nói là Xuân Huyên
mới phải. Trong Hán tự, chữ Xuân
tương tự giống như chữ Thung. Người
xưa dùng hình ảnh cây xuân và cỏ huyên (còn gọi là rau kim châm), hai
từ này để chỉ cha mẹ.
Theo sách Trang Tử, từ
thời thượng cổ, Cây Xuân là loại cây sống lâu. Tám ngàn năm mới là một mùa xuân
của nó. Rồi tám ngàn năm lại là một mùa thu. Chữ Xuân để chỉ người cha, và mong
nguyện ước trường thọ.
Huyên là một loại cỏ sống
lâu năm. Từ này dùng để chỉ bà mẹ. Người xưa quan niệm rằng, ăn cỏ huyên, thi
giải được nỗi buồn phiền. Vì thế. Cỏ này còn có tên là vong ưu thảo. Việc trồng cỏ huyên gần chỗ ngủ của các lớp người
tiền bối, là một hình ảnh để nhớ mẹ.
Sự vận dụng trong một
trường hợp khác
Đầu chi đào phi diễn huỳnh duyên
Nghe
tiếng bạn chào ta hỡi liền vâng
Cửa
lầu đài gặp khách chơi xuân
Tôi
xin chào lại đáp chơn ân chàng
Trăng
rằm rực rỡ chói chang
Thung
huyên hai cụm ngọn vàng xuân xanh
Cội
bền tươi tốt ngọn cành
Trong
dòng đường bệ, bốn nhành nở đua.
Nhiều khi người hát có
thể dùng một điển tích. Sự việc ấy cũng diễn ra bình thường đối với các bậc túc
nho. Cây đào non tơ, lá xanh duyên Tấn
Tần hiệp phối xe dây xích thằng:
Đào chi
yêu yêu kỳ diệp Tấn Tần
Buông
lời hỏi bạn, chỉ Xích Thằng xe chưa?
Đã
từng hoa nguyệt gió mưa
Hay
đài lê chưa phá kính, bạn phải thưa cho tường
Khi cánh nam giới dùng
câu chữ điển lệ lật ra từ Kinh Thi, thì bên cánh nữ lưu cũng phải thông thuộc,
biết rút ra những câu trong Kinh Thi ấy để đối dáp lại. Rõ ràng đây là sự hô ứng đầy thú vị. Một cuộc chơi văn
chương hào hứng:
Phiếu
hữu mai kỳ thiệt thất hề (*)
Cầu
ngã thứ sĩ, chưa định bề thất gia
Chưa
từng giỡn nguyệt, chơi hoa
Đài
lê chưa phá kính, còn dợi khách yên hà ghé sang
Tấn – Tần là tên của hai
nước thời Xuân Thu (Trung Quốc). Theo
Tả truyện, Huệ Công nước Tấn phủ ước với nước Tần, bị nước Tấn đánh bắt được.
Huệ Công phải đem thái tử là Ngữ làm con tin ở nước Tấn. Mục Công nước Tấn gả
con gái là Hoài Danh cho thái tử Ngữ. Từ đó, năm đời liên tiếp, con cháu hai họ
cưới gả cho nhau, đối xử hòa thuận. Điển lệ Tấn – Tần nói về mối nhân duyên đẹp đẽ, tình thông gia
hòa thuận êm ấm.
Những cụm từ xích thằng (sợi chỉ đỏ), hoặc ông Tơ, bà Nguyệt, Trăng già, Nguyệt lão. (ông già ngồi dưới trăng) đều là điển tích
nói về hôn nhân. Theo sách Tục u quái,
thời nhà Đường (Trung Quốc), có người tên là Vi Cố, khi đi cầu hôn, thấy một
ông già ngồi dưới trăng, đang mở túi vải, kiếm sổ sách và đang xe một sợi chỉ
hồng. Vi Cố thấy vậy bèn hỏi, thì được ông lão trả lời là dây chỉ xe duyên vợ
chồng. Vi cố xin được biết người vợ sau này của mình. Nghe xong, mặc dầu anh
không tin, nhưng về sau là sự thật.
Thường thường, trong câu
hát, các bậc sĩ hiền đều lấy từ trong Kinh Thi. Đây là một trong nhiều dẫn chứng-
Phiếu hữu mai kỳ thực thất hề, kỳ thực
tam hề) Mơ rụng xuống còn lại 7 phần, rồi còn ba phần), Ý nói sự xuân xanh
mỗi ngày một muộn, một tàn dần.
Sau đây là một câu hỏi
mang tính chung chung, khi gặp nhau tại tràng hát:
Phụ mẫu sở sanh, phụ mẫu hề sở định. Cha mẹ sinh ra ta, thì
cha mẹ định đoat chuyện (chồng vợ) cho ta. Lấy câu ấy làm câu mở để rồi hát
tiếp
Gánh
cang thường chờ lịnh mẹ cha
Tình
cờ bướm mới gặp ba
Chẳng
biết lòng em cao rộng định mà làm sao?
Thiên
tử mạng ngã tường
Ở
nhà cha mẹ cũng thường dạy ta
Xin
cho cầm sắt điều hòa
Thì
cha với mẹ cũng định mà cho con.
Bậc nho sinh lãng tử
thường dạo chốn non bồng nước nhược. Đến những nơi cảnh đẹp để vui thú yên hà. Bỗng
một hôm nghe tin quê nhà mở hội, bèn lui gót lãng du. Đến dự hội, vừa tự giới
thiệu khéo léo thân thế, vừa cất tiếng chào:
Bấy lâu
vui thú non bồng
Tai
nghe mở hội dục lòng ra đi
Lăm
xăm bước xuống trường thi
Mở
lời chào hết đông tây nội trường.
Để chứng tỏ mình cũng là
người biết chút ít văn chương, cánh nữ bèn vận dụng câu thơ Kiều “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
để nói lên cảnh xuân vui tràn ngập, khách du xuân rộn ràng. Đào lan xin chào
hương tình ong bướm:
Đầy đường gia cảnh đưa người chơi
xuân
Cảnh
du hồ gặp khách du xuân
Đào
lan mở miệng, bướm dưng hương màu.
Tự giới thiệu thân thế để
bày tỏ tính hiếu ngày đêm chăm chỉ cửa
Khổng, sân Trình, nấu sử sôi kinh. Dụng hình tượng nghiêng tai, và gọi các chị em là quần nga. Lời chào tế nhị nho nhã:
Ngày
sáu khắc sân Trình đọc thong thả
Đêm năm canh màn Khổng
vén ra
Ngiêng
tai nghe hội quần nga
Lịnh
tiêu từ giã bôn ba tựu trường
Mở
lời chào hết thơ hương
Sau
thưa cùng Nguyệt lão, lập đường gió trăng.
Sự duyên dáng và nhẹ
nhàng của đào liễu đón chào mời khách
thơ hương, biết dòng nhơn nghĩa, nên muốn
trao duyên tơ hồng:
Liễu
vương mây đón khách
Đào
mở miệng chào người
Chốn non tiên thỏ đợi sương rơi
Buông lời hỏi nguyệt, nguyệt đổi dời thế nao?
Thấy dòng nhơn nghĩa muốn trao
Phụ mẫu còn tại thế, không biết đào còn mấy xuân?
Mượn
cảnh gió trăng ngàn - chim vui hót làm ý mở, rồi sau đó là tỏ lời giải đáp
những điều khách hỏi. Trả lời một cách rành rẻ đầy đủ về bản thân, gia thế, sức
khỏe của mẹ cha, để xin giao loan chắp
mối:
Gío
đón khách đưa cây phưởng phất
Chim
chào người bên núi lăng xăng
Buông
lời tỏ với gã Hằng
Thỏ
còn ẩn bóng đợi trăng bấy chầy
Thung
huyên hai cụm sum vầy
Trổ
cành đơn quế, thiệt rày mười lăm xuân
Xin
cho phụng nọ gặp lân
Giao
loan chắp mối sắt cầm bền dây
Ta có thể thấy rằng,
những câu hát huê tình ở đây được lập nên bởi các bậc túc nho, thông thạo kinh
điển. Biết vận dụng một cách sâu rộng. Điều đó chứng tỏ sở học uyên thâm. Ví dụ
như mượn bài thơ cổ của Trung Quốc để làm đề tựa. Lấy hình ảnh đôi chim thư –
cưu, một loài chim luôn sống bên nhau, không bao giờ cách rời. Chúng luôn sóng
đôi dưới nước. Chim trống và chim mái không hề lả lơi: Lật ra từ Kinh Thi:”Quan
quan thư cưu tại hà chi châu/ Yểu điệu thục nữ quân tử hữu cầu” ( Ríu rít
chim thư cưu kêu ngoài bãi sông. Người con gái yểu điệu sánh vai cùng bậc quân
tử)
Sự cách điệu qua những
tiếng phò mã, trạng nguyên, dùng trong các trường hợp chào hỏi. và các tuồng tích
của Trung Quốc xưa. Việc này cũng rất dễ hiểu. Bởi vì đây cũng là một cách truyền
bá văn hóa qua vần vè, điển tích, diễn hát. Những bổn tuồng ấy vẫn cứ theo dòng
thời gian nối nhịp huê tình:
Trước chào
quan phò mã
Sau hỏi gã
trạng nguyên
Làm trai mà
đến cửa quyền làm chi?
Hỏi chàng
nói đặng một khi
Để ta sắm
sửa lễ nghi ra mừng
Nhược bằng
chàng nói không thông
Tìm thầy học
nữa, kẻo uổng công danh bạn cười
Chào trước, hỏi sau là sự
tế nhị trong cách ứng xử. Câu trả lời cũng tương xứng với cách dùng từ, một
hình thức phối họa ngôn ngữ, và mang tính pho tuồng soạn sẵn, đã thuộc lòng. Do
đó mới có việc hát cặp, hát đôi. Nếu chẳng may, trong cuộc chơi không có người
hát lại, thì còn gì là thú vị nữa. Cánh đàng trai dùng chữ mỗ trong câu hát đối: Trạng
nguyên là mỗ, phò mã là ta/ Tai nghe
có giặc Ô Qua loạn trào/Làm trai ai chẳng học đào/Đến cửa quyền giỡn nguyệt,
trước vào thiên thai/Đôi ta thiệt đã anh tài/Ta đà đáp đặng, mở cửa ngoài ta
chơi. Câu hỏi có thể là câu dị bản, nhiều trường hợp tương tự của sự mở lời
chào:
Trước chào phò mã, sau xin hỏi đôi câu
Khổng
Tử Tôn Châu hà cố.
Mạnh
Tử bất Tôn Châu
Nam
nhơn đối đặng, thiếp làm dâu trọn đời
Trước
dưng lời thục nữ, sau đáp lại đôi câu
Khổng
Tử sanh châu thế cố, nãi tôn châu
Thầy
Mạnh Tử sanh đời liệt quốc, biết đâu mà nhường
Thiệt
ta làu thuộc kinh quyền
Anh
đà đáp đặng, nữ hiền kết duyên.
Một bối cảnh diễn cảm chào dưới
dạng mời trước, nhập đề vài câu , trước
khi chào với ý tứ trực khởi, ở ngoài xa
mà đã nghe tiếng hò của người con gái:
Gặp nhau một chút nên duyên
Xin mời bên đó cất lên giọng hò
Ở ngoài xa tôi nghe tiếng bạn hò
Cách sông tôi cũng lội, cách đò tôi cũng
sang
Tới đây, tôi chào hết bạn vàng
Chào người thục nữ, chào nàng thuyền
quyên
Rất
hiếm thấy lời chào trách móc. Nhưng không phải là không có. Nhẹ nhàng mà sâu
lắng. Khéo léo và ý tứ. Khiêm nhường một cách thiện cảm:
Gặp anh sao chẳng hỏi, chẳng chào
Hay là em
đã có chốn sang giàu hơn anh ?
Nếu như miếng trầu là đầu câu chuyện, thì đối
với ứng xử, giao tiếp, lời chào cao hơn
mâm cổ là nét văn hóa truyền thống, thanh lịch. Rất nhiều trường hợp mà khi
gặp nhau, chúng ta dùng một câu hỏi để thay cho một câu chào. Những việc ấy đã
trở thành quy ước bất thành văn. Trong sân chơi hát huê tình, lời chào hỏi cất
lên được xem như là chiếc chìa khóa
đẻ mở cánh cửa giao duyên, đối đáp.
--------------
(*) Giải thích những điển tích và dịch nghĩa các
câu chữ Hán, từ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam -
Nxb Hà Nội, 1978
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét