Võ Văn
Hòe
Do cái vần lưng?
Tại
sao trong các loại thể thơ: lục bát,
Đường luật, tự do, song thất lục bát…thì thể loại thơ Đường lại nhanh chóng
vắng mặt trên văn đàn nhanh như vậy mà ca dao lục bát lại sống lâu dài và thường
xuyên xuất hiện trên văn đàn, cả khi những nhà thơ không chuyên hoặc những nghệ
nhân dân gian trong làng xã vẫn thường sử dụng thể loại này như một công cụ
truyền đạt thông tin trong những buổi hát huê tình, hò khoan đối đáp ?
Từ vấn đề trên có thể nhìn thấy rằng
ca dao lục bát xứ Quảng đã có thể tồn tại và đi theo cùng sự phát triển lịch sử
- văn hóa một vùng đất như hiện nay là nhờ vào việc vươn ra, mạnh dạn bứt phá
quy ước cũ. Một số nhà chuyên môn tìm hiểu ca dao đất Quảng cho rằng đấy là biểu
hiện của sự phóng khoáng trong cách tư duy phản ánh hiện thực của người dân
vùng đất này. Chính đó mà ca dao lục bát và cả khi có nhiều câu ca dao có biến
thể vẫn được mệnh danh là thơ ca dân tộc, là thể loại mà bất cứ giai đoạn lịch
sử văn học nào cũng thường xuyên và đôi khi cần phải sử dụng để truyền đạt thông
tin đến với mọi người. Thơ lục bát/ca dao cho dù được mệnh danh như vậy nhưng
không phải là chuyện đương nhiên phải vậy, trái lại phải nghĩ rằng do đâu mà thể
loại thơ lục bát có khả năng đi cùng và tồn tại lâu dài với lịch sử - văn hóa dân
tộc từ xưa đến nay. Cũng phải ghi nhận rằng thơ Đường luật (nhiều loại) đã một
thời làm nên sóng gió trên văn đàn bởi tính hàn lâm bác học, còn bởi tính khái
quát cao của thể loại mang đến và còn bởi cách gieo vần, đặt chữ của thể loại đã
cho phép tạo nên những vần thơ có khả năng thể hiện tính tĩnh, “sang trọng” của
loại thể và đồng thời nhiều nhà thơ đã tung hoành ngọn bút của mình một thời và
dĩ nhiên đã làm lay động không chỉ trong giới văn nghệ sỹ mà còn thấm sâu đến các
tầng lớp bạn đọc. Có điều dễ nhìn thấy là trải qua mấy thế kỷ, thể loại thơ Đường
với thể thức thực hiện của nó có lẽ đã tự thỏa mãn với cách gieo vần luân phiên
bằng - trắc mà không nghĩ đến sự cách tân hình thức luân phiên ấy. Do đó, thể
loại đã không tự hóa thân để đi theo cùng thời đại được mà “nửa đường” phải nhường
bước cho các thể loại thơ anh em khác vươn lên thể hiện khả năng biểu đạt của mình,
bấy giờ thơ Đường giữ vai trò lịch sử của mình. Lẽ ra trong mỗi giai đoạn tiến
hóa của lịch sử - văn hóa, bản thân thể loại luật Đường phải tự đổi mới, tự thân
vận động để tiến lên giữ vai trò tích cực trên văn đàn, phù hợp với sự phát triển
của hiện thực thì tiếc thay thể loại dù cựa quậy đến mấy cũng không thể thoát
ra được luật bằng - trắc đã quy định sẵn. Nhà thơ nào muốn thành công thành
danh phải vận dụng đúng phép luật thơ, nếu không không là nhà thơ nữa. Xem
trong văn học trung, cận đại Việt Nam sẽ rõ điều này.
Lẽ ra bản thân thể loại thơ Đường phải
tự cách tân bằng cách nào đó tùy thuộc vào sự phản ánh hiện thực khách quan, nhưng
chắc chắn phải phá vỡ tiết tấu ngôn ngữ, luân chuyển các biểu tượng biểu hiện và
đặc biệt phải biết “dịch chuyển thanh và vần điệu” sao cho phù hợp với tâm lý
người đọc vào mỗi thời kỳ phát triển. Nói cách khác là thay đổi cách biểu đạt và
cách chứa đựng nội dung sao cho thích nghi được và đồng thời đáp ứng điều mà người
đọc mong muốn tìm thấy trong những vần thơ với đầy đủ các yếu tố “thất tình” của con người một cách sinh động,
chi tiết và cụ thể nhất. Thơ Đường không
vượt qua hình thức thay đổi cách biểu hiện và không thể miêu tả chi tiết cái mà
con người đương đại trông mong nên khi điểm danh đã thấy trống vắng trên văn đàn
đương đại mà một thời thể loại này từng gây sóng gió trong thi ca.
Khảo sát câu ca dao lục bát, điều có
thể nhìn thấy rõ rằng để tồn tại cùng với quá trình phát triển lịch sử - văn hóa
dân tộc, vùng miền, ca dao luôn có sự biến đổi, thích nghi, đôi khi biến động để
đi cùng năm tháng, nếu không cũng sẽ mất vai trò và bị giữ lại để trở thành “người
đưa đường” trong văn đàn thi ca vùng miền. Để biến hóa, câu thơ lục bát/ca dao
tự dung nạp, hay cần phải tạo ra yếu tố ngôn ngữ dư (phá luật), đặc biệt tạo ra
khả năng lựa chọn ngôn ngữ để biểu đạt mà không (đôi khi) phải giữ lại luật, thể
hiện ở vần lưng - một cái vần khó chịu trong thơ lục bát. Để hiệp vần với câu lục,
đến lượt câu bát không thể sử dụng phương thức kết hợp ngôn ngữ mà phải thực hiện
thao tác lựa chọn. Chính đó, ca dao đất Quảng đôi khi phải tự phá vỡ niêm luật để
“đi theo” và đồng thời tạo nên sự hy sinh về luật để đạt được khía cạnh biểu đạt,
cái có thể biểu đạt khi cuộc sống người Quảng đang dập dồn lao nhanh về phía trước,
câu ca dao theo đó phải thích ứng, phải tự cắt bỏ bớt niêm luật (khi cần thiết).
Chính vì có khả năng dịch chuyển thanh, vần tại cái vần lưng khó chịu kia mà câu
ca dao người Quảng thể hiện được tính hiện thực, cái cần hiện thực cụ thể để văn
đàn đưa tay thường xuyên tiếp nhận “đi cùng năm tháng” với quần chúng nhân dân
trong quá trình phát triển văn hóa - lịch sử của mình.
-
Tay anh cầm cần câu trắc, ống câu trúc
lưỡi
câu thau
Muốn câu con cá biển chớ con cá bàu
thiếu chi.
Hoặc:
-Tai nghe trống chiến, trống chầu
Xếp
ba miếng đậu phụng, lộn đầu lộn đuôi.
Theo đó, có thể thấy theo từng giai
đoạn phát triển văn học, ca dao lục bát đất Quảng chung sống cùng văn hóa bản
địa luôn “biết người biết ta”, biến hóa tài tình, khi yếu tố dư xuất hiện, lúc
cần cũng có thể dịch chuyển vần lưng để đạt nguyện vọng biểu đạt cái cụ thể,
hiện thực khách quan và đồng thời phục vụ kịp thời tâm lý người dân trên vùng
đất chưa mưa đà thấm được hài lòng, toại nguyện.
- Ai kia mười lăm năm lỡ biết bao lần,
Chứ em đây mười lăm năm mới lỡ chỉ một lần.
Nhưng rứa mà không lỡ,
Để làm gương cho khách hồng trần thử xem.
- Ai người ham chuộng giàu sang
Còn tôi cuộc sống có cơm đủ rồi
Đói cơm, áo rách sá gì
Miễn sao lý tưởng cao sang cho người.
Và từ đó, ca dao lục bát đất Quảng
luôn tìm được cách thể hiện riêng không chỉ làm hài lòng con người nơi đây mà
còn giữ được cho mình một khả năng biểu đạt không bao giờ bị sử dụng đến cạn
kiệt khả năng thích ứng để có thể sẽ phải lặp lại chính bản thân câu thơ lục
bát hoặc do bị “cạn” nên dễ rơi vào vùng lõm của văn đàn, tức thì có nguy cơ bị
bỏ quên ngay trên mảnh đất ca dao dân ca đất Quảng. Chính chỗ đó, cho thấy rằng
ca dao lục bát ra đời tại vùng đất chưa mưa đà thấm đôi khi biến tấu thành những
câu dài ngắn khác nhau không tuân thủ niêm luật lục bát như bản thân lục bát
vậy mà vẫn phục vụ được bao người, vẫn thấy hài lòng, vẫn có cái nhìn bao dung
khi thể loại cựa quậy vươn ra ngoài niêm luật.
- Ba đời bảy họ nhà khoai
Dù ngọt dù bùi cũng thể lăn tăn.
- Bớ cô gánh nước trồng cây
Tôi xin một miếng tưới dây tơ hồng
Dây tơ hồng không trồng mà mọc
Gái chưa chồng tôi chọc tôi chơi [1].
- Cao bờ thì tát gàu giai
Gàu sòng chỉ tát được nơi thấp bờ.
- Cây xanh thì lá cũng xanh
Anh giỏi trồng lúa, em rành trồng bông
Mai ngày lúa chín đầy đồng
Bông nở trắng đồng, thi thử ai hơn [2]
Khi
ca dao cần sự thể hiện chi tiết tâm tư, nguyện vọng mà nhất là biểu đạt tâm
trạng thương yêu, hờn giận trong tình yêu đôi lứa, hoặc mối quan hệ xã hội đan
xen nhiều chiều, lục bát có thể mở rộng vòng tay, khoan dung biến thể ngay
trong cấu trúc để làm hài lòng những nghệ nhân dân gian đang cần một thể loại
nới rộng câu chữ, niêm luật, vần điệu để ứng xử ngay khi cần thiết mà không
phải chọn lựa niêm luật, vần… nào cả. Câu thơ lục bát do đó có thể kéo dài câu
chữ ra để đáp ứng nhu cầu sử dụng bằng cách luân phiên thay đổi biểu tượng biểu
hiện, ngôn ngữ, âm thanh, vần và tính hiện sinh của cuộc sống là có thể phản
ánh cái rất cụ thể, khi cần. Cái mà bất kỳ người đọc nào cũng cảm nhận được
theo cách riêng của họ mà không cần phải thuyết minh ngay trong câu chữ dược
dùng. Và thế là ca dao đất Quảng đã mượn lục bát để làm được công việc rất cụ
thể là thể hiện tâm trạng con người trong những hoàn cảnh khác nhau, dưới nhiều
giác độ khác nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét