Võ Văn Hòe
VĂN HÓA PHƯỚC THUẬN
1. Các thiết chế văn hoá làng
Xưa kia cùng với quá trình tụ cư và sinh sống, bước đầu
người dân Phước Sơn đại xã (nay là thôn Phước Thuận, xã Hoà Nhơn, huyện Hoà
Vang), thiết lập các thiết chế văn hoá nhằm có nơi sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu
tâm linh cho dân làng nhưng đồng thời cũng để bảo lưu, giữ gìn những di sản văn
hoá vật thể và phi vật thể của Phước Sơn. Theo đó, đã phản ánh đời sống tinh
thần của người dân nơi đây rất phong phú. Các thiết chế gồm chùa làng, đình
làng, miễu xóm, các miễu thờ Thái Giám, Cao Các, lăng Âm linh và các nhà thờ
của các chư phái tộc.
Thế nhưng do tác động bởi chiến tranh nên các di tích tại
Phước Sơn từ xưa đến nay cả một vùng Ngũ xã đều không còn nguyên vẹn. Hiện chỉ
còn các kiến trúc cổ như đình làng Thạch Nham, Phước Thuận, Phú Hoà, trong đó
đình làng Phước Thuận được Uỷ ban nhân dân thành phố cấp bằng công nhận di tích
Lịch sử - Văn hoá cấp tỉnh thành.
Đình làng: Đình Phước
Thuận là ngôi đình cổ, ban đầu toạ lạc tại Cồn Am (cạnh Cồn Nồ), xứ Bàu Dài,
tục gọi là Minh Đình (nay là xóm trên).Thời gian đầu mới dựng, đình làm bằng
tranh tre, gỗ tạp để di dân trú ngụ có nơi sinh hoạt chung, nơi tập trung đồng
tâm chống lại thú dữ, là địa điểm trú phòng khi mưa nắng, lụt bão, coi ngó sơn
phỉ.
Thời Hồng Đức (thời Lê Thánh Tông – không rõ năm) đình làng
Phước Sơn dời đổi về xứ Cây Trôi thuộc khu vực đất làng. Đến đời Gia Long, đình
làng được xây cất lại gạch ngói, sườn đình làm bằng gỗ tại địa phương. Gạch
ngói được lấy đất từ ruộng Hồ Lư tại xóm trên để nung, nay còn dấu tích. Viên
gạch lớn, hình chữ nhật giống gạch người Chăm. Đây là thời kỳ Phước Sơn đại xã
chưa bị chia cắt, do đó nhân dân trong làng đông đúc, các ngày tế lễ kỳ an, kỳ
phước người dân được ăn xôi, cháo, thịt cũng là đặc sản tại Phước Sơn. Đến dự
tế lễ xuân thu nhị kỳ tại đình, người dân trong làng thường mang theo chén đũa
cho tiện, nhằm kết thúc lễ hội là có thể dọn dẹp gọn gàng trong ngày mà không
phải thức đến thâu đêm.
Đình Phước Thuận là một ngôi đình lớn, trong dân gian còn
lưu truyền “Đi vô xem đình La Qua, đi ra trông đình Phước Thuận”. Đến
nay làng Phước Thuận còn lưu giữ được bộ đinh, bộ điền thời Thái Đức – Gia Long
(có ấn chỉ niên hiệu Thái Đức), và bảng Khoán ước thời Gia Long nay còn lưu giữ
được, cho thấy tại Phước Thuận, một làng quê trung du của huyện Hoà vang vẫn
còn những văn bản Hán – Nôm, chứng tỏ thời kỳ Phước Sơn đại xã, nơi đây đã từng
thiết lập được một nền nếp sinh hoạt văn hoá trong nhân dân mà nay còn được lưu
truyền trong dân gian.
Đến năm Tự Đức thứ III (1849) đình làng được gia cố đổi từ
gỗ lim, gỗ muồn sang gỗ mít, kiền kiền. Hiện nay giàn gỗ vẫn còn nguyên vẹn.
Trên một cây xà có khắc: Tiền triều lịch đợi, giáp thìn niên, bổn xã hội tề
cải thiên đình, toạ cấn hướng khôn trạch đắc, bát nguyệt, cửư nhật, thìn thời
khắc, thượng lương [1]
Sau hiệp định Giơ ne vơ năm 1954, đình làng Phước Thuận đã
bị máy bay của Pháp đánh phá gây sụp đổ. Nay cây cột cái của đình còn mang dấu
đạn. Nhân dân làng Phước Thuận vận động quyên góp trùng tu, tôn tạo, giữ nguyên
kiến trúc xưa.
Năm 1998, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, được
sự cho phép của chính quyền địa phương xã Hoà Nhơn, nhân dân chung sức cùng với
kẻ xa quê hương, người bám trụ với sự hỗ trợ của các công ty xí nghiệp đóng
trên địa bàn thôn đã đóng góp tiền của tu sửa, chỉnh trang để có được ngôi đình
như hiện nay.
Thời gian đầu xây dựng nên ngôi đình, mục đích dùng làm nơi
trú ngụ nắng mưa cho nhân dân đi khai hoang phục hoá mở mang bờ cõi có nơi
nương tựa, sinh hoạt, đình được gọi là Minh Đình, dần về sau gọi là Thống Hội
Đường, biến thành nơi thờ thần Thành hoàng bổn xứ bảo an chính trực, thờ các vị
Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cư của làng. Từ đó về sau các lễ hội kỳ yên,
kỳ phước của làng được tiến hành tại đình.
Trong đình, gian hậu tẩm có các câu đối: -Thần linh bảo
hộ nhơn dân thịnh,Thánh đức phò trì bá tánh hưng.Hai bên tả hữu đình thờ
Tiên khai, Hậu vũ tức thờ Tiền hiền, Hậu hiền của làng, có câu:-Phước Thuận
khai nguyên tiên Ngũ xã,Đà Châu nhậm hoán hậu Trần, Lê.[2] Hàng cột cái trước
có:-Tiền đình hoa khai Phước thuỷ long phi trợ,Hậu tẩm hoá văn Thuận địa hổ
lai phò. Bức bình phong có câu đối:-Giang sơn thiên cổ tú, Phong cảnh tứ
thời xuân.Trụ biểu có 2 câu đối:- Phước khai thái vận hậu thế miên
trường danh kế thạnh,Thuận vũ phong điều thuần nông tục mỹ bách tánh hưng.- Hoà
hợp tiền nhân khẩn thổ khai nguyên lưu hậu thế,Nhơn cơ đức hậu an cư lạc nghiệp
niệm thâm ân.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, đình Phước Thuận còn là nơi tụ họp thanh niên và nhân dân tổng Phước Tường,
các làng phụ cận đến luyện võ nghệ dưới sự chỉ huy của Thủ lĩnh xã đoàn,
chờ thời cơ tổng khởi nghĩa. Tại đình, nhân dân nghe ông Trần Định đọc lệnh
khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945. Đình Phước
Thuận còn là nơi lý trưởng Ngũ xã nộp ấn triện cho chính quyền cách mạng.
Thời kỳ 1908 nổ ra phong trào kháng thuế tại Trung kỳ, các
ông Trưởng Nghệ, Bồi Lộc luyện võ nghệ tại đình, đánh Pháp, xuống đường xin xâu
kháng thuế dưới sự lãnh đạo của Ông Ích Đường.
Những năm 1950 – 1954 đình Phước Thuận đón nhận đồng bào di
cư từ các làng lân cận không chịu nổi sự khủng bố của giặc Pháp như làng Phú
Hoà, Thạch Nham, Phước Thái, Đông Lại, Nghi An, Đông Phước… trốn địch dựa vào
núi non rậm rạp của làng Phước Thuận để ẩn mình. Đình còn là nơi để cán bộ cách
mạng dừng chân trong trận đánh Pháp năm 1952 tại Thạch Nham, trận phục kích
đoàn xe của Pháp tại Truông Tranh, Cẩm
Bình năm 1954.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đất nhị Phước:
Phước Hậu, Phước Thuận là căn cứ địa cách mạng, nơi cung cấp thông tin liên
lạc, lương thực, thuốc men cho bộ đội tại cấm Ông Dụng. Chính đó, giặc Mỹ bắn
phá đình làm hư hại, sụt móng. Từ sau 1975, trong hoà bình xây dựng, đình làng
Phước Thuận là nơi làm kho giữ lúa của hợp tác xã số 2 Hoà Nhơn và là nơi làm
việc của đội sản xuất số 10.
Ngoài đình làng còn có Chùa làng, Miễu Tam vị, Miễu
bổn xứ, Miễu Thái giám, Dinh Bà, Lăng Âm linh, Nhà thờ các chư phái tộc.
2. Khoán
ước làng Phước Sơn
Tại làng Phước Sơn
nay là thôn Phước Thuận, xã Hoà Nhơn, huyện Hoà Vang còn lưu giữ lại bản khoán
ước của làng, lập vào thời Gia Long thứ 7 (1808). Bản khoán ước được viết bằng
chữ Hán trên giấy dó, kích thước 20 x 30 cm. Về nội dung gồm 10 quy định về
việc cúng tế ở đình làng, về mừng thọ lên lão, về cưới hỏi lấy vợ, lấy chồng
của trai gái trong làng, về sự tương thân tương ái, giúp đỡ nhau khi gặp khó
khăn, hoạn nạn, về khuyên răn làm những điều tốt, không trộm cắp, không phá của
cải, tài sản chung của làng…
Mở
đầu khoán ước ghi: “Chúng tôi là những viên chức lớn nhỏ
trong xã, thuộc xã Phước Sơn, tổng Phước Tường thượng, huyện Hoà Vang, phủ Điện
Bàn. Nay lập đồng ưng định cử ông cựu cai tên Đàm lên làm chức trùm cả để chăm
sóc các việc trong đình, chùa, sắp đặt lễ cúng và cứ theo khoán lệ khu xử những
việc đúng sai trong xã, giữ gìn bờ cõi
thuộc địa phận của xã. Từ nay những nam phụ, lão ấu
trong xã và những người ngụ cư, nhóm họp tại đình, tưởng niệm các bậc tiền hiền
đều phải giữ đúng phép tắc hợp với thuần phong, trên thuận dưới hoà, để giữ lấy
danh dự với các làng lân cận. Từ nay về sau con cháu trong làng đều phải tuân
theo những điều mà trước đã vạch sẵn”. Và, bản khoán ước cũng
chỉ rõ việc xử phạt khi các thành viên trong làng không chấp hành: “Những viên chức nào trong xã không dựa theo lệ khoán của các bậc tiền
hiền mà làm trái lại những điều đã định ước trong tờ ưng định này lại có những
lời phán ngôn ngang bướng thì phải chịu phát vạ một heo và cả trầu rượu dùng đủ, để làm sáng
rõ nghi tắc của các bậc tiền hiền, để nêu gương cho những lớp trẻ sau này, ngõ
hầu giữ được sự phát triển của làng”.
Ngay từ
lời mở đầu bản khoán ước đã ghi rõ trách nhiệm của con cháu – các thành viên
trong làng phải biết gìn giữ lễ nghi, phép tắc, thuần phong mỹ tục của làng mà
các bậc tiền hiền khi đến khai canh, khai cư lập làng đã đề ra và một khi ai đó
không chấp hành, không thực hiện đúng thì sẽ phải chịu phạt trước dân làng.
Trong 10 điều khoán ước có những điều ghi về tinh thần tương thân, tương ái
như: “Dựa theo khoán lệ của tiền nhân thì trên
đời này có kẻ giàu, người nghèo không giống nhau, nên phải giúp nhau mới phải”,
hay: “Dựa
theo lệ định của tiền nhân, trong làng có người quá cố mà con cháu trong nhà
muốn tỏ lòng hiếu thảo, hoặc có lễ tạ khi tống táng xong, việc ấy tuỳ theo khả
năng của gia chủ, bất luận ít nhiều. Khi có đám tang gia chủ phải trình xã
trưởng để cắt người trợ táng hoặc trợ tế”. Bản khoán cũng nói
về việc gìn giữ, cấm phá tài sản chung của làng như: “Dựa
theo phép tắc của quan trên, măng tre mới nhú lên cần phải được bảo vệ, để dùng
vào những việc có ích sau này. Điều này đã có giấy tờ cấm ngặt từ trước, nghĩa
là cấm không được cắt măng tre. Nếu ai còn phạm vào điều cấm ấy, cắt trộm măng
tre khi bị bắt phải nộp lệ khoán một quan, một tiền và thu thêm 5 tiền để
thưởng cho người bị bắt được”. Tuy
nhiên, bản khoán ước cũng có mặt hạn chế như “Người
con gái phải đúng 14 tuổi trở lên mới được gả chồng” và phải “giữ đúng 6 lễ từ vấn
danh đến lễ cưới”, tuổi lấy chồng của người con gái quy định như vậy còn
quá sớm. Hiện nay, theo Luật Hôn nhân và Gia đình chỉ rõ là nữ phải đủ 18 tuổi
trở lên thì mới lập gia đình.
Bản khoán
ước này được lập vào ngày 4 tháng 9 năm Gia Long thứ 7 (1808) 1.
Như
vậy, khoán ước cũng như hương ước có vai trò quan trọng đối với việc ổn định,
xây dựng cuộc sống trong làng Phước Thuận, theo đó, chấp hành tốt sẽ làm cho
làng xóm yên vui, mọi người dân trong làng đoàn kết, trên thuận dưới hoà. Có
được điều đó có thể một phần do các hình thức phạt và hình thức khen thưởng mà
khoán ước hay hương ước đã nêu ra. Qua đó, chúng ta thấy khoán ước đã phản ảnh
các quy tắc ở làng xã mà mọi thành viên trong cộng đồng buộc phải tuân theo;
đồng thời phản ánh một phương diện quan trọng của văn hoá làng, đó là những
quan niệm về điều hay, lẽ phải của dân làng, đưa họ vào khuôn phép và thực hiện
những điều đã quy ước. Do vậy, có thể nói khoán ước là một khế ước tự nguyện
của toàn thể dân làng Phước Thuận, gắn bó dân làng với nhau, điều tiết các
trách nhiệm cũng như quyền lợi của mọi thành viên trong làng. Khoán ước đã bổ
sung cho luật pháp khi cần xử lý những vấn đề cụ thể luôn nảy sinh trong cuộc
sống hằng ngày của nhân dân. Vì vậy, mặc dù cách chúng ta ngày nay gần 200 năm,
nhưng bản khoán ước của làng Phước Sơn đại xã vẫn còn nhiều ý nghĩa và giá trị
trong việc xây dựng làng văn hoá hiện nay. Chúng ta cần tiếp thu và phát huy
cách ứng xử mang đầy tính nhân văn và tự nguyện của các thành viên trong làng
xã ngày trước, để cùng nhau quy ước rồi thực hiện, nhằm làm cho từng thôn,
làng, từng tổ dân phố, khu dân cư được an vui, yên ổn, môi trường xanh - sạch -
đẹp và phát triển. Có thể từ môi trường văn hoá làng xóm ấy, Huê tình ca được tập hợp từ
những lần sinh hoạt văn nghệ, diễn xướng dân gian mà có chăng? Ngày nay, chúng
ta có thể hiểu được, trước ta đã có người làm công việc lưu giữ vốn văn nghệ
dân gian này rất tích cực và hiệu quả. Hiệu quả không chỉ bằng trí nhớ mà còn
ghi lại bằng văn bản, đã mấy chục năm hoặc lâu hơn như bản khoán ước Phước Sơn
đại xã được thiết lập cách ta trên 200 năm vẫn có thể sưu tầm và xử lý được. Từ
hôm nay nhìn về quá khứ, đó cũng là cách bảo tồn, tàng trữ di sản văn hoá địa
phương, mong ở đấy sẽ phát huy được tinh hoa văn hoá dân gian với tinh thần “ôn
cố tri tân”, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc.
Hiện nay trong cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá” quy ước cộng đồng đã trở thành một trong những
nội dung quan trọng và chủ yếu trong công tác xây dựng thôn, bản, làng văn hoá,
tổ dân phố văn hoá…Nội dung của quy ước cộng đồng dựa trên cơ sở kế thừa và
phát huy những thuần phong mỹ tục của cha ông qua hương ước, khoán ước. Nhưng
chỉ với những quy ước mang tính tích cực, còn những quy ước lạc hậu thì chúng
ta cần loại bỏ, làm sao cho mỗi gia đình, mỗi tộc họ hiểu biết và gìn giữ những
thuần phong, mỹ tục tốt, góp phần làm cho người dân có ý thức trách nhiệm với
cộng đồng. Đồng thời giáo dục cho thanh thiếu niên, con cháu trong gia đình,
dòng tộc chăm lo làm ăn, cố gắng học tập, không đua đòi hư hỏng, không rơi vào
các tệ nạn xã hội…nhằm đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc, nếp sống có văn hoá, văn minh ở các làng quê, khu phố
được phát huy, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng thành phố văn minh, giàu đẹp.
3. Sinh
hoạt văn nghệ dân gian
Trong
lao động sản xuất, đặc biệt trên vùng trung du âm âm gió núi, mưa chiều như
làng Phước Thuận thì hẳn sinh hoạt văn nghệ phải được tổ chức để có chỗ cho
thanh niên nam nữ và nhân dân nói chung sau những buổi lao động mệt nhọc ngoài
đồng, trên núi có nơi sinh hoạt, tạo không khí sôi động mà quên đi những mệt
nhọc trong lao động hằng ngày. Xuất hiện những câu ca dao tục ngữ từ vùng trung
du này thường gắn với địa danh, mang hơi thở của tâm lý về đặt tên đất, tên
làng – những địa danh được đặt tên khi “từ Bắc nhi nam lai” khai khẩn. Ấy vậy
nên địa danh đất đai sông suối đã đi vào những câu ca dao, tục ngữ được truyền
tụng tại Phước Sơn đại xã từ ngày lập làng còn lại đến giờ.
Tục ngữ:
Mống chuồn
đóng tại Gò Chòi [3],
Mấy cô con gái đi coi mống chuồn. Qua đấy, cho thấy rằng dân gian
vận dụng cách nói lái trong tiếng Việt
khi nhìn thấy quan quân qua lại trên Gò Chòi, thanh niên trong làng trào lộng
cho vui với các cô con gái. Cô nào “muốn chồng” lên trên ấy mà chọn. Giống như
câu: “Trai
khôn tìm vợ chợ đông, Gái khôn tìn chồng
giữa chốn ba quân cũng là cách sinh hoạt văn nghệ dân gian nơi quê
kiểng. Mống
Cửa Đại cá mại chết khô. Người dân Phước Thuận truyền tụng rằng ngồi tại
đình làng, lấy nơi này làm hệ quy chiếu ngó ra đèo Đá Trạc hướng Cửa Đại, Hội An
có mống (7 sắc cầu vồng) đóng thì trời có hạn. Đấy là phóng tầm mắt ra xa. Còn
nếu người dân làng nhìn gần chỉ thấy: Mống Đá Trạc không khát cũng khô. Hoặc,
tục ngữ tại làng có: Mống Cu Đê chạy về dọn gác. Ngồi tại đình Phước Thuận ngó
về hướng sông Câu Đê qua ngõ Đại La có mống là trời lụt. Và nếu nhìn gần thì
lại: Mống
Đại La mưa sa bão táp.
Điều đó
cho hay rằng người dân làng Phước Thuận lấy đình làng là trung tâm của mọi sinh
hoạt và cũng là trung tâm của mọi dự đoán và từ tâm lý này có thể nhìn nhận
được rằng đình làng ngày xưa là trung tâm, là nơi dân làng ngưỡng vọng, đấy
cũng là nơi tập trung mọi buồn vui, ái nộ của làng, là nơi thể hiện lịch sử -
văn hoá chung của làng. Nơi thờ Thành hoàng làng. Từ đây chúng ta có thể hình
dung ra được thanh niên nam nữ Phước Thuận xưa thường tụ tập về đình làng sinh
hoạt văn nghệ. Thế nên từ đó những câu ca dao, tục ngữ, có cả hát hò cũng ra đi
từ ngôi đình làng, vì đấy là khu vực trung tâm làng. Ngày xưa cả vùng rộng lớn
của Phước Sơn đại xã và về sau là đất Ngũ Phước vẫn phải lấy đình là trung tâm
cho mọi sinh hoạt của người dân trong làng. Huê tình ca cũng trong hoàn cảnh đó mà ra
đời và được ghi chép lại như một minh chứng cho những lần sinh hoạt văn nghệ
dân gian nơi làng quê trung du yên ả của Phước Thuận xưa.
Trong
lịch sử phát triển làng, Phước Thuận luôn có sự tiếp xúc, giao lưu với các làng
bộ lân cận qua việc di cư đổi nơi cư trú, qua hôn nhân, phát triển kinh tế,
trao đổi các sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Do đó văn hoá làng
Phước Thuận không đóng khung trong môi trường diễn xướng nhỏ hẹp của làng mà
còn tìm nhiều cách lan toả ra bên ngoài, chính đó là giao lưu và tiếp nhận biến
đổi các thành tố văn hoá cho hợp với phong thổ địa phương, nâng lên thành cái
riêng Phước Thuận. Văn hoá văn nghệ dân gian tại làng Phước Thuận xưa, qua tư
liệu Hán – Nôm Khoán ước và Huê tình ca cho thấy hoạt động hò hát diễn
ra thường xuyên vào những ngày nông nhàn, những đêm trăng thanh, có lễ hội thì
sinh hoạt càng có dịp phát triển. Các loại hình hò khoan đối đáp, nói vè, chiếu
tuồng… được tổ chức biểu diễn và được mọi người quan tâm tham dự, nhất là lực
lượng trai tráng lực điền, nam thanh nữ tú trong làng.
4. Huê
tình ca Phước Thuận xã
Đây là cuốn sách viết kiểu
chữ Nôm trên loại giấy dó bằng mực xạ, chép lại những bài ca của thanh niên nam
nữ xã Phước Thuận, huyện Hoà Vang. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Phước
Thuận là xã cánh tây của huyện Hoà Vang, đất đồi gò, vùng trung du, tiếp giáp
từ chân Bà Nà - núi Chúa xuống và núi Phước Tường lên, kinh tế thuần nông, chủ
yếu là làm ruộng và trồng trọt các loại hoa màu khác như khoai, sắn, các loại
đậu, mè (vừng), một ít gia đình có chăn nuôi bò, có cả bò bầy. Sau cách mạng,
xã Phước Thuận đổi thành thôn Phước Thuận thuộc xã Hoà Nhơn, huyện Hoà Vang,
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Cuốn
sách "Huê tình ca" (hát huê
tình) sau khi phiên dịch từ Nôm ra tiếng Việt là tập hợp những bài ca dân gian,
phần lớn dùng trong hát hò khoan, ngâm nga giải trí, một trong những thể loại
đặc trưng của văn nghệ dân gian Quảng Nam, Đà Nẵng. Đôi khi cũng dùng cho phong
cách tự sự. Sách không có cốt truyện, có 45 bài chia làm 4 phần, mỗi phần thể
hiện một chủ đề.
Phần
I: Huê tình ca có 7 bài, tập trung ngợi ca tình yêu đôi lứa,
thể hiện tâm tình nam nữ trong làng.
Phần
II: Lý Mã Hiền đoạn . Có 13 bài, cảm
tác từ trích đoạn tuồng Lý Mã Hiền, phần
Ngọc Dung - vợ Lý Mã Hiền - bị chú mình dùng cung tên sát hại. Thông qua phần
này cho biết ngày ấy người dân làng trung du Phước Thuận đã tiếp cận với tuồng,
và thích xem tuồng đồ, thường đến với các chiếu tuồng.
Phần
III: Kiều tích ca. Có 9 bài. Cảm hứng
từ Truyện Kiều (Nguyễn Du), bài ca xúc cảm từ những tình huống xảy ra trong
mười lăm năm Vương Thuý Kiều mắc nạn, đầy nỗi dằn vặt, phải đau khổ lắm trước khi
có thể vượt qua được những nghiệt ngã.[4]
Phần
IV: Cách cú. Có 16 bài. Là những câu
ca thở than về tình yêu chông chênh, xa cách giữa nam nữ trong làng.
Sách
Huê tình ca được chép bằng chữ Nôm
đầu đời Minh Mạng, đến năm 1941, Bảo Đại thập lục niên, nhuận nhị ngoạt, sơ tứ
nhựt được sao lục lại lần nữa [5].
Năm 1997, cụ Võ Văn Xuân người làng Đông Phước, xã Hoà Phát, huyện Hoà Vang
phiên âm từ Nôm sang Việt.
Huê tình ca là tiếng ca vui buồn từ
những chuyện tình mà thông thường người ta vẫn đọc cho nhau nghe trong những
lần sinh hoạt văn nghệ trong làng hay có thể là hát hò khoan đối đáp huê tình
vào những đêm trăng sáng. Vì đây là thể loại dân ca dân gian, do đó cho phép ta
nghĩ rằng thông qua hình thức diễn xướng trong sinh hoạt văn nghệ làng xã, nam
nữ thanh niên Phước Thuận xã nhớ và tập hợp có bài bản, tự ký nhằm lưu giữ và
phổ biến lâu dài, đồng thời tránh nguy cơ bị quên lãng cùng với thời gian theo
năm tháng đời người.
1. Đúng như tên gọi của nó, "Huê
tình ca" càng hát càng thấy gay cấn, ngổn ngang, cái ngổn ngang có thật
nơi trần thế. Thường chỉ hai nhân vật: chàng - nường (nàng) hoặc chàng - em, có
khi thay thế bằng hai đại từ: đây - đó. Chủ thể trữ tình được nhấn mạnh tạo nét
viền đậm vì đấy là đối tượng phản ánh. Họ thường đổi vai nhau trong lúc hát,
khi ngổn ngang về phía nữ, lúc trục trặc thuộc về nam. Chuyện của những chàng
trai cô gái xảy ra trong không gian vật chất cụ thể làng Phước Thuận, tuy hẹp ở
xóm làng nhưng lại có đủ những cung bậc phức tạp của thuộc tính tâm lý tình yêu
trong quan hệ xã hội, con người. Cái ao ước, khát vọng trăm năm của các nhân
vật dân gian trong sách chẳng bao giờ cũ cả. Mọi thời đại, tình yêu thương vẫn
là cốt lõi trong quan hệ con người. Một người con gái ray rứt với nỗi buồn vời
vợi, yêu suốt quãng đời con gái, nhưng chỉ một lúc nào đó: Chiều chiều một gánh cang thường, Nỗi nầy cho phỉ biết tường cùng ai,
Dẫu mình thác xuống tuyền đài, Dầu nay khuất mặt, hậu lai cũng gặp chàng. Hoặc:
Phân ra cho rõ cội nguồn, Đừng tham phú
quý bỏ nghĩa nầy bơ vơ.Tất nhiên với tình yêu đôi lứa trong nỗi u hoài luôn
có hy vọng nhóm lên.
2. Khác với Huê tình ca là cảm tác từ
những trích đoạn tuồng Lý Mã Hiền,
đoạn Ngọc Dung - vợ Lý Mã Hiền - bị chú sát hại bằng mũi tên. Chủ đề tập trung
khai thác, phản ánh bằng thể loại dân ca, qua chiết đoạn Ngọc Dung gặp nguy. Đây
là đoạn thương cảm nhất, thể hiện sự đau xót cho kẻ ngay ngộ nạn. Khuyên em ráng bước chưn dời, Lên yên tị nạn
lánh hồi tai ba...Ruột đau từ đoạn như giần, Phần thời bị mũi tên thần, Phần
thời đau dạ, khổ muôn phần chàng ơi. Vào thời điểm bị tên bắn, ốm nặng, lại
trở dạ muốn sinh, tiều tuỵ lắm rồi nhưng ai biết đâu lòng cô vợ trẻ lại long
lanh ý thức tuyệt vời và trong sáng: Đạo
cương thường trời khiến bỏ nhau, Thương cho chàng đỡ trước ngăn sau có một
mình. Chỉ mỗi lời nguyện ước sống có nhau nhưng mà hỡi ơi, thật khủng khiếp
làm sao, những bài ca từ chiết đoạn là một tấm lòng của một con người, họ đã
sống một cuộc sống tình cảm dằn vặt, khổ tâm với những kỷ niệm nhức nhối, và
người vợ trẻ - Ngọc Dung - mong được chết nhẹ nhàng, êm ả. Rất dân gian và rất
gần gũi với cuộc sống đời thường nơi quê kiểng.
3. Không có nỗi đau nào giống nhau cả, "Kiều tích ca" là những tiếng thở than, thương tiếc, cảm hoài
cho một đời tài hoa nhưng phận bạc. Có một ít ước mong về hạnh phúc thôi, mà
sao thật khó! Âm thầm chịu đựng, âm thầm đau. Đau trong âm thầm hy vọng như
Kiều đã có lần hy vọng trong than thở: Đã
hay hoạ khởi vô đoan, Thằng bán tơ gieo hoạ nên thân nường khổ thay, Còn gì một
chút đoạ đày, Dẫu có khôn bảy vạn cũng tay giang hồ. Nỗi đau ngoài ước muốn
của Kiều cũng là của “nữ nhi" đôi khi cũng gặp nơi làng quê trung du yên ả
nầy, từ đây một câu ca, một tiếng hát bật lên trôi nổi, thở than. Điều không
mong đợi, đơn giản nhưng lại ngoắc vào tâm trạng những ngổn ngang nhức nhối: Bởi Hoạn Thơ có dạ ghen tuông, Đem thân đày
đoạ nghĩ phận nường không ra chi, Làm cho mặt bủng da chì, Sự hoàn chi hậu bỏ
đi lên chùa, Cho hay tài sắc kém thua, Duyên còn chi nữa mà tranh đua bớ nường....Mười lăm năm bướm chán ong chường, Chờ cho
một kiếp Tiền Đường ra chi. Có thể xem đấy là những trục trặc có thể có
trong tình yêu nam nữ. Thế
nhưng tha thứ và cảm thông với những trúc trắc vẫn là điều cơ bản, là thước đo
tấm lòng của mỗi con người đã được đem ra hát giao lưu cũng là cách nhắc nhở
giải bày. Người ta hát về Kiều khách quan không hề ân oán, không lấy oán trả
oán, lấy ân trả ân mà cư xử với tấm lòng vị tha đúng đạo nghĩa cang thường như
lý lẽ của người xưa vậy: Dẫu không thương
cũng nghĩ chút tình. Lẽ mô phụ bạc duyên mình rứa răng, Lời nguyền
thuỷ kiệt sơn băng, Non cao tạt dạ, đá bằng đề thơ. Có một điều chiêm nghiệm
qua thực tiễn, trong tình yêu tâm trạng bi không ít nhưng chưa thấy luỵ. Nhớ
người yêu cũ khôn nguôi rồi liên tưởng đến nhân tình thế thái kèm theo thái độ
hoài niệm với nhiều lưu luyến trong các câu ca "cách cú" là điểm nổi
lên trong những câu xa cách. Một lớp thế hệ thanh niên Phước Thuận trước cách
mạng Tháng Tám trải qua những sóng gió của trần thế ngổn ngang tâm trạng, các
câu xa cách gần như hết hy vọng, không giống khúc hát huê tình buổi đầu tiên. Nỗi niềm đây ruột thắt trăm chiều, Đã mang
phận bạc kêu thời với trời xanh. Cũng có mối quan hệ tham lam, bủn xỉn,
khôn vặt, vụ lợi. Tuy thế vẫn không ngờ ở cái xã Phước Thuận ngày nọ lại có
những con người vươn lên trong sinh hoạt tinh thần, làm đẹp cho xứ sở quê hương
như vậy. Nghĩ như ta với bạn còn thiếu
niên, Ngày xuân không lẽ ôm duyên ngồi chờ.
Như thế, vẫn thấy nhân vật trong sách hiền
hậu, trải nghiệm và thật thà. Kể cũng đáng trân trọng, đáng yêu sao bởi không
luỵ vì tình. Đấy là cái quý của Huê
tình ca Phước thuận xã. Dẫu
thế, những câu ca dân gian hát về xa cách không thiếu chất lãng mạn, tao nhã.
Huê tình ca có giọng điệu riêng của miếng đất đồi gò, trung du, bán sơn địa,
thuần nông nghiệp trải qua bao lần đổi thay của đất nước, người dân Phước Thuận
đã thể nghiệm đủ những ngổn ngang của cuộc sống trần gian, họ đã định hình, lưu
giữ được những bài ca, làm bằng chứng cho phương thức sinh hoạt văn nghệ dân
gian làng xã phát triển một thời.
Một
cuốn sách tâm tình nam nữ được dân gian lưu hành ở một làng nhỏ phía tây thành
phố Đà Nẵng cho ta nhìn được không gian của những cuộc biểu diễn dân gian làng
Phước Thuận với những tâm tình ngưng đọng, những sinh hoạt, cả phong tục, cách
xử sự với tha nhân, lời ăn tiếng nói với khung cảnh làng quê, thiên nhiên, cỏ cây,
vườn tược, con người...phong phú nhiều mặt. Những bài ca có lời văn dí dỏm, sắc
sảo, quê kiểng, mang đậm dấu ấn dân gian làm nổi bật một làng quê trung du mà
nay vẫn còn đọc cho nhau nghe những bài ca dân dã. Chính đó đã góp phần nhỏ vào
công tác giữ gìn di sản văn hoá Hán – Nôm quý báu tại địa phương, nuôi dưỡng
tinh thần, sức sống dẻo dai của người Hoà Vang nói chung và người dân tại làng
Phước Thuận nói riêng để vươn lên xây dựng đời sống văn hoá tại một làng quê
trung du cánh tây huyện Hoà Vang. Việc sưu tầm, giữ gìn các tài liệu Hán – Nôm
có trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhằm bảo tồn, lưu giữ để các thế hệ mai sau
có thể sử dụng, cảm thụ và thưởng thức được những giá trị văn hoá địa phương,
nâng cao hiểu biết về một thời kỳ những thế hệ đi trước đã ra công làm đẹp cho
làng xã quê nhà.
Tuy
nhiên cũng sẽ nhìn nhận rằng không phải những gì của nhân dân làng Phước Thuận
sản sinh ra trong quá khứ đều là những cái tốt, cái hay, cái đẹp mà không có
những cái hạn chế, yếu kém đan xen. Chính đó, việc sưu tầm ghi chép lại vốn văn
học quý này tại làng Phước Thuận vẫn phải trên tinh thần “gạn đục khơi trong”,
đánh giá cho trúng những tích cực có trong văn nghệ dân gian, chỉ ra những hạn
chế để tìm cách khắc phục tốt hơn.
[1]
Tiếp tục triều trước nhiều đời, năm Giáp thìn, bổn xã di dời đình, xây dựng lại
theo hướng tây – nam, nơi đất tốt. Ngày 9 tháng 8, giờ thìn thượng lương.
[2] Đà Châu:
tức châu Đà Na là thung lũng Phước Sơn đại xã.
1
Bản khoán ước nguyên văn bằng chữ Hán do ông Trần Phước Hoàng 65 tuổi (nhà thơ
Phước Đồng), thôn Phước Thuận lưu giữ, ông Nguyễn Đình Thảng, nguyên giảng viên
Khoa Ngữ văn - Đại học Khoa học Huế
dịch. Tài liệu dẫn theo Hồ Tấn Tuấn, Tạp chí Văn hóa Đà Nẵng 2007.
[3] Gò
Chòi: từ triền ruộng hố Bạc làng Phước Sơn đại xã lên dương núi Phước Tường đi
ra ngõ Đà Sơn chừng 2 km gặp Gò Chòi. Trên gò có cái chòi nơi quan quân, người
dân qua lại có nơi nghỉ chân. Còn gọi là Chòi Mông (mông lung nhìn xuống xem
chừng thú dữ, cướp đường…). Câu trên dân gian vận dụng phương thức lái trong
tiếng Việt.
[4]
Trong công tác điền dã về làng Phước Thuận (xã Hoà Nhơn), chúng tôi gặp văn bản
chữ Nôm bình luận về nhân vật Thuý Kiều bằng văn xuôi. Qua văn bản cho biết họ
rất quan tâm đến tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du, đặc biệt đánh giá nhân vật
Kiều theo cách nhìn có đối chiếu vào các giềng mối, đạo đức Nho gia đối với người phụ nữ.
[5] Người
làng Phước Thuận kể rằng sách do cụ Hồ Đạm chép lại những bài ca do nam nữ
thanh niên trong làng hát với nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét