Vũ Hùng
Ngữ nghĩa
địa danh Đà Nẵng là gì?
Nhằm trả lời câu hỏi
trên, từ trước đến nay nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đã tìm hiểu nguồn gốc ngữ
nghĩa của địa danh này. Ý kiến của các nhà nghiên cứu tuy có những điểm gặp
nhau, nhưng vẫn còn khác biệt, và càng tìm hiểu thì càng nhận thấy câu trả lời
thỏa đáng vẫn còn để ngõ cho những ai quan
tâm.
Nhà nghiên cứu Nguyễn
Phước Tương cho rằng các danh xưng Hàn, Đà Nẵng đã có từ dưới thời Chămpa.
Tiếng Chămpa là bộ phận của ngôn ngữ Mã Lai - Đa đảo, Hàn có nghĩa là Bến, còn
từ Đà Nẵng có nghĩa là Sông Già, Sông Lớn ( Đà là sông, nước; Nẵng là già,
lớn)(1).
Nhà nghiên cứu Lam Giang
(2) cho rằng người Chăm gọi tên vùng này là ‘Hang Đanak” là bờ biển buôn bán.
Còn “ Đanak” hay “ Đarak” có nghĩa là“ Sông Lớn”, tức sông Hàn.
Trong cuốn Địa chí Quảng Nam -
Đà Nẵng (3), phần thứ sáu, Phụ lục, có giải thích “Đà Nẵng: địa danh có nguồn
gốc Chăm (Đà có nghĩa là sông, nước, còn Nẵng có nghĩa là lớn)”.
Theo nhà nghiên cứu Lê
Văn Hảo (4), Đà Nẵng là địa danh phiên âm từ tiếng Chàm “Hang Danak”, nghĩa là
bờ biển buôn bán, chữ Danak hay Darak nghĩa là con sông. Theo Hán tự, chữ đà là con sông, chữ nẵng là xưa kia. Ông cho rằng “Đà Nẵng
là tên gọi do người Việt mượn của tiếng Chàm mà Việt hóa theo âm Hán Việt một
cách tài tình, giữ cả âm lẫn nghĩa: vùng sông nước xưa kia”.
Theo cụ Bố Thuận, con của
quan Pháp Aymonier lấy vợ người Chăm, làm ở Viễn Đông Bác cổ, sống ở Phan Rí
vào đầu thế kỷ XX, Đà Nẵng là biến dạng của từ Chăm cổ Daknan. Dak có nghĩa là nước, nan hay nưn là rộng. Địa danh Daknan
hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông cửa sông Hàn bây giờ. Người Việt phiên
âm ra thành Đà Nẵng. Cũng theo cụ Bố Thuận thì chữ Daknan thì người
Trung Hoa gốc Hải Nam
đọc là Tounan, sau này biến đổi thành Tourane .
Nhà nghiên cứu Sakaya cho
rằng, tiếng Chăm và Raglai là như nhau, thuộc ngôn ngữ Malayo - Polynesia,
nhưng hiện nay ngôn ngữ cổ của người Chăm đã rơi rụng nhiều, riêng người Raglai
còn lưu giữ nhiều yếu tố cổ hơn. Trong ngôn ngữ người Raglai ở Khánh Hoà,
Danang nghĩa là nguồn, sông nguồn. Phải chăng Danang là nguồn gốc của địa danh
Đà Nẵng ?
Theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Sinh Duy (5), địa danh Đà Nẵng hình thành không ngoài quy luật giao thoa
các ngôn ngữ Ấn, Hoa, trong đó từ nguyên Phạn - Hán không thể không xét đến.
Người Ấn Độ đã đi lại và lưu trú trên dãi đất này từ thế kỷ thứ III-II trước
công nguyên, nền văn minh Ấn với Phạn ngữ du nhập trước tiên, bản địa hóa thành
Chăm ngữ. Người Trung Hoa diễn dịch ngôn ngữ Ấn sanskrit bằng âm Hán, sau khi
ảnh hưởng của Ấn suy yếu, người Hán đã thay thế bằng cách Trung Hoa hóa, đặc
biệt là các danh xưng. Ông cho rằng dãi đất bên tả ngạn sông Hàn đối diện với
bán đảo Sơn Trà ngày nay, trong thịnh thời của người Chăm ngự trị châu
Amaravati, có tên là Hang Danak (chữ minh họa kèm theo). Hang có nghĩa là dãi đất do biển rút cạn để lộ ra. Danak có nghĩa
là cửa sông tiếp giáp biển. Danh xưng Đà Nẵng bắt nguồn từ âm Chăm Danak, có
nghĩa là cửa sông tiếp giáp biển. Theo từ nguyên Hán ngữ, Đà là nước từ sông
chảy ra, sông nhánh; Nẵng là dòng chảy của nước, nước trong núi chảy thông ra
người bản thổ, dòng nước trong núi chảy ra sông người nước Thục. Người Hoa Nam
phát âm Đà Nẵng là Tu – rang, người Bồ Đào Nha khi đến Quảng Nam trong thế kỷ
XVI, XVII đã ký âm thành Turan, Turam, Turao, Turơn, Turone.v.v… Người Việt đã
diễn dịch âm Chăm Nak thành Nãng với tự dạng Hán tự có nghĩa là xưa, trước kia,
nhưng vẫn đọc là Nẵng. Ông cũng cho rằng tên gọi Hàn nguyên là âm Hán – Việt của Chăm ngữ Hang và có nghĩa là dãi
đất do biển rút cạn để lộ ra.
Như vậy, các nhà nghiên
cứu trên đều cho rằng tên gọi địa danh Đà Nẵng có nguồn gốc từ ngôn ngữ Chăm
Danak hay Darak, qua quá trình tiếp biến thành tên gọi như ngày nay chúng ta đang
sử dụng. Về nghĩa của Đà Nẵng từ tên gọi gốc Chăm, không căn cứ vào Hán tự, có
các lý giải như sau: Là Sông Già, Sông
Lớn; Con Sông; Vùng sông nước rộng mênh mông cửa sông Hàn; Cửa sông tiếp giáp
biển; Nguồn, Sông nguồn.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu,
chữ Chăm Hang Danak do nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy cung cấp không phải Phạn
ngũ, không phải chữ Chăm cổ mà là chữ Chăm
akhar thrah, một loại chữ Chăm tìm thấy trên văn bản hoàng gia Chăm vùng
Nam Trung Bộ, Ninh Thuận và Bình Thuận, hiện nay cũng là chữ mà người Chăm vùng
này đang sử dụng. Chữ Chăm akhar tharah có từ thế kỷ XVII đến nay, từ thế kỷ
thứ XVI đến thế kỷ thứ IV là thời kỳ chữ Chăm cổ và từ thế kỷ thứ IV trở lên là
chữ Phạn (6). Theo chữ Chăm akhar thrah (7), thì ngoài từ Hang khá trùng nghĩa
với một số nhà nghiên cứu trên đã lý giải, là bờ, bực, bờ dốc đứng, nhưng Danak
– một từ gốc biến âm thành Đà Nẵng, lại khác xa về nghĩa. Danak là một từ hai
âm tiết có khá nhiều nghĩa: Biển, đại dương, liễng ( liễng trầu, xấp trầu), thứ
tự, ngăn nắp, loại, dòng (tôn giáo), lệnh, đẳng cấp, khuynh hướng v.v… Từ Darak
có nghĩa là chợ búa, vịnh, biển khơi. Trong ngữ cảnh này, Hang Danak, Hang
Darak có nghĩa là bờ biển, bờ vịnh, bến (bờ) chợ, nếu tách ra thì Danak được
hiểu là biển, Darak là vịnh, biển, chợ búa. Phải chăng Hang Danak là tên gọi
địa danh Đà Nẵng do quá trình tiếp biến, có thể Hang và Danak bị tách ra, Danak
biến âm thành Đà Nẵng, Hang biến âm thành Hàn, vì vậy Đà Nẵng cũng còn gọi là
Hàn ( xứ Hàn, “Ra Hàn xuống Phố” - Ra Đà Nẵng xuống Hội An), và con sông chảy
qua đây cũng gọi là sông Hàn ?
Chữ Chăm akhar thrah phiên âm la tinh Hang
Danak, Hang Darak có phải là tên gọi mà các nhà nghiên cứu trên đều làm cơ sở
giải thich ngữ nghĩa địa danh Đà Nẵng hay không, xuất xứ từ đâu, trên bia ký
hay tư liệu nào, và nếu cùng một từ dạng nhưng vì sao cách lý giải về nghĩa của
từ này lại không giống nhau ? Trong cuốn sách của mình Nhà nghiên cứu Nguyễn
Sinh Duy có kèm theo tự dạng chữ Chăm này nhưng không thấy chú thích từ nguồn
nào. Các nhà nghiên cứu khác chỉ dùng chữ đã phiên âm la tinh, không kèm theo
tự dạng Chăm. Cho đến nay chúng ta cũng chưa phát hiện chữ viết địa danh Đà
Nẵng trên bia ký Chăm hay trong các văn bản của vương quốc Chămpa để so sánh.
Để lý giải sự khác nhau
về nghĩa gốc của Đà Nẵng như đã nêu ở trên và đồng thời cũng là một phương thức
tiếp cận để tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh này, cần đặt nó trong đặc điểm vùng
miền với những khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ trong vương quốc Chămpa. Trong
lịch sử, vương quốc Chămpa từng chia thành từng vùng như Inrapura (Thanh Hóa -
Huế), Amavati (Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi), Vijaya (Bình Định), Khauthara
(Phú Yên - Khánh Hòa), Panduranga (Ninh Thuận-Bình Thuận), mà một số nhà nghiên
cứu cho rằng đó là các tiểu quốc với những đặc điểm về văn hóa và ngôn ngữ,
trong đó không chỉ có cư dân thuộc ngữ hệ Malayo - Polynesien mà còn có những
cư dân thuộc ngữ hệ Môn - Khmer. Vương quốc Chămpa có một thời kỳ sử dụng Phạn
ngữ, sau đó Chăm hóa Phạn ngữ thành tiếng Chăm cổ. Ngôn ngữ Chăm cổ khác với
ngôn ngữ Chăm hiện tại và mỗi vùng có thể không hoàn toàn giống nhau. Chữ Chăm akhat thrah hình thành từ thế kỷ XVII,
nhưng trong Ô Châu Cận Lục, viết vào giữa thế kỷ XVI, đã có tên gọi địa danh Đà
Nẵng. Như vậy trước đó rất lâu, có thể khi chưa thuộc Đại Việt, đã có tên gọi
về vùng này như thế. Cư dân vùng Amaravati nói chung và cư dân ngay tại mảnh
đất nay là Đà Nẵng thời ấy đã phát âm và viết về địa danh này như thế nào? Hang
Danak là do người Chăm sau này phiên âm bằng chữ akhar thrah theo phát âm của
người vùng Amaravati? Sự phiên âm này có thể dẫn đến thay đổi chữ và nghĩa so
với bản ngữ. Và vì vậy phải chăng đã dẫn đến cách hiểu về nghĩa của nó khác
nhau?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét