Lưu Phương Định
“Văn hoá
dân gian Đà Nẵng
cổ truyền&đương đại”
một hướng đi, một sự nhận đường.
1. Đồng hóa hóa văn hóa
cũng có nghĩa là đồng hóa tộc người, dân tộc. Lịch sử chứng minh các tộc người
Việt ở phía Nam Trung Quốc: Ngô Việt, Mân Việt, Điền Việt, Nam Việt bị đồng hóa
bởi văn hóa Hán – Đường nay thành cư dân Trung Quốc. Tộc người Lạc Việt không
chịu đồng hóa văn hóa Trung Quốc mà xây dựng, bảo tồn một nền văn hóa Đại Việt
để nay tồn tại nhà nước Việt Nam
độc lập.
Có
trên 300 định nghĩa về văn hóa và có không dưới 10 trường phái về văn hóa học
như trường phái tiến hóa - văn hóa, “biên niên sử”, nhân học - địa lý,
lịch sử - tinh thần, lịch sử - văn hóa v. v. . . . .
Những điều
nêu ra ở trên để nói lên một điều rằng đề cập đến phạm trù văn hóa nói chung,
văn hóa dân gian nói riêng là điều không cùng và cũng là điều cần thiết, quí
giá cho hôm nay và cho cả mai sau. Văn hóa dân gian Đà Nẵng – cổ truyền
& đương đại của Hội Văn nghệ Dân gian Đà Nẵng xuất bản tháng 4 năm 2010
là món quà có ý nghĩa, chào mừng 35 năm giải phóng thành phố Đà Nẵng. Ý nghĩa
không đơn thuần là vào ngày này, năm này nhất định phải có cái gì đó ra mắt như
một “ vật chứng” mà ở chỗ trong suốt chặng đường 117 năm thực dân Pháp và đế
quốc Mĩ đem văn hóa phương tây gieo hạt trên mảnh đất nầy liệu có ươm mầm, nẩy
hạt, tốt lá, xanh cây hay chỉ như một loại chùm gởi đã hết hạn ký sinh. Mà
thật, qua gần 700 trang sách tập thể các tác giả đã ghi lại cái hồn cốt, tinh
hoa văn hóa của một địa phương, vùng, miền. Trước đã vậy thì nay cũng vậy.
Những thứ đã trở thành quốc hồn, quốc túy (hẹp hơn trong cộng đồng dân cư ít)
luôn được nhân dân trân trọng, giữ gìn, nếu cần có khi phải đánh đổi bằng cả sự
mất mát, hi sinh.
2.
Sách chia hai phần: Những vấn đề chung và Văn hóa dân gian trong đời sống. Có
vẻ như không được “đăng đối”, bên trọng bên khinh (149 trang/529 trang) nhưng
đâu đó lại là “ bất hợp lý” trong cái “ hợp lý”.
Văn hóa dân gian trong đời sống hiện
lên ngồn ngộn, phong phú, đa dạng với nào là văn hóa - văn
học, văn hóa - lễ hội, văn hóa - ẩm thực, tâm linh, nghề, tộc người v. v. . .
được phần đông tác giả khai thác đã có cội rễ trong nhân dân từ bao đời nay
không những không mất đi theo thời gian mà còn được lưu giữ, làm mới thêm theo
hướng tư duy, phát triển, cập nhật đời sống hiện đại nên có bấy nhiêu chứ
còn hơn thế nữa cũng là điều tất yếu.
Điều đáng quí ở đây cái cổ truyền cũng là cái đương đại và cái
đương đại không là gì khác ngoài cái “nền” cổ truyền. Thế xã hội văn minh, phát
triển ở đâu? Xin thưa văn minh phát triển phải dựa trên cái đã trở thành quốc
hồn, quốc túy ấy chứ không thể khác được. Nói một cách văn vẻ “có những điều
đốt mãi chẳng thành tro” - ấy đấy là quốc hồn, quốc túy.
Những vấn đề chung về
văn hóa được các tác giả Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuân, Bùi văn Tiếng, Tần Hoài Dạ
Vũ, Tô Ngọc Thanh, Hoàng Hương Việt, Nguyễn Thị Thu Thanh giới thiệu vừa
mang tính lý luận vừa mang ý nghĩa thực tiễn.
Trong phần II:
Văn hóa dân gian trong đời sống như đã nói ở trên chiếm một tỉ trọng kha khá
nhưng cái kha khá ở đây lại thiên về cả chất lẫn lượng. Về văn hóa – văn học
xuất hiện khá đông vui các thể loại từ ca dao, tục ngữ, truyện cười, giai
thoại, truyện cổ dân gian, nói, hát dân gian, đồng dao đến hò, lý, hát bả trạo,
tuồng. Đâu đâu cũng như bắt gặp cha ông chúng ta của một vài trăm năm trước.
Chỉ một vùng văn hóa thôi cũng đủ sức quyến rũ rồi huống chi nói đến một đất
nước, một dân tộc. Không nói ra nhưng dõi theo những trang viết tôi như bắt gặp
trong tâm thức của mỗi tác giả muốn làm một cái gì đó để những gì mình quan tâm
không mất đi mà sống lại với đầy đủ hồn cốt, dạng vẻ như nó vốn có. Phải chăng
mong mỏi ấy được phần nào đền đáp. Hòa Vang, Lê Quốc Kỳ lần theo những
câu ca dao mà giới thiệu được hằng bao phương vật, món ăn chỉ mới nghe
qua cũng đủ sức hấp dẫn, mời gọi (Đặc sản miền quê). Võ Văn Hòe, Lưu Anh
Rô khá mới mẻ trong việc sưu tầm những bài thơ, những vần điệu ca dao ca
ngợi Bác và phục vụ công tác tuyên truyền cách mạng trong giai đoạn chống Mĩ.
Văn
hóa tinh thần qua văn cúng (Nguyễn Hoàng Thân), mừng nhà gươl
người Cờ-tu (Đỗ Văn Vinh), mở cửa mả (Phan Thế Tập), sắc phong
(Trần Trung Sáng) làm cho sắc thái văn hóa dân gian thêm phần đậm đà, đầy đặn.
Văn hóa – nghề, văn hóa - ẩm thực, văn hóa vật thể cũng được các tác giả Nguyễn
Phúc (Nghề mộc Kim Bồng), Phan Thị Miều (Nghề dệt đất Quảng),
Thanh Minh (Cơ sở dệt làng Bảo An), Phạm Hữu Đăng Đạt (Ẩm thực
Đà Nẵng), Phạm Hữu Bốn (Đệ nhất hùng quan), Hồ Tấn Tuấn (Phế tích
Chăm ở Đà Nẵng) cung cấp được nhiều tư liệu quí giá vừa có giá trị lịch
sử, vừa có giá trị văn học. Những vấn đề các tác giả quan tâm, mong mới là bước
khởi đầu vì rằng rất nhiều điều còn đang ở phía trước. Xem như công việc của
chúng ta hôm nay còn ở trong giai đoạn đang hoàn thành chứ chưa phải đã hoàn
thành. Cần phải đầu tư chiều sâu, nghiên cứu sâu hơn nữa, rộng hơn nữa, thực
chứng phải bảo đảm yêu cầu khoa học và có tính thuyết phục cao. Chẳng hạng đọc Đệ
nhất hùng quan tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Đường đèo nguyên khởi là đường
mòn, thành đường từ chân Bắc đến chân Nam năm nào, thời vua nào, ai chủ
trương? Đường nhựa xuất hiện từ bao giờ? Nhà trò, trạm bỏ gậy ở đâu còn chăng
chứng tích? Hoặc như cái chợ kháng chiến ở Hòa Tiến với lời thơ Cao
Phương:
“ Dẫu rằng chẳng bán, chẳng mua
Đi cho thằng Mĩ thấy thua dân mình “
Chợ thời
Pháp nhưng nhân vật xuất hiện thời Mĩ là sao?
Trong phạm vi bài viết có
tính cách điểm danh này, việc đi sâu khai thác giá trị bên trong là điều bất
khả, mong chư vị tác giả không lấy làm phiền lòng.
Bấy nhiêu
trang sách cho một vấn đề quá mênh mông, đa dạng chắc chắn khó có thể nào đầy
đủ. Thành công không ở một lúc, một người. Thời gian và sự quan tâm của những
người đã, đang và sẽ dành cho văn hóa dân gian Đà Nẵng sẽ cho kết quả chính
xác, toàn vẹn về vấn đề rất đáng được quan tâm nầy. Hãy nhớ lấy qui luật nghiệt
ngã của sự tồn tại là cái gì không giữ sẽ mất. Chúng ta chẳng bao giờ muốn mất.
Vậy hãy biết nâng niu, trân trọng, giữ gìn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét