Nguyễn Thị Pháp
TÂM TÌNH MỘT KHÚC BÁNH DA
Anh tôi xốc lại
cái ba lô mấy lần để chuẩn bị lên đường. Hình như anh chưa muốn đi, anh
chưa nỡ rời xa mẹ tôi. Còn mẹ cứ luýnh quýnh :
- Năm, con bỏ thêm một khúc bánh da nữa đi con !
- Ủa,
mẹ đã bỏ vào mấy khúc rồi mà !
-
Con bỏ thêm một khúc nữa đi con để có cái lót dạ trên đường
hành quân. Mày ăn một khúc bánh da có thể sống cả ngày con ạ!
Anh tôi
nhè nhẹ đặt cái ba lô xuống cho mẹ nhét thêm một khúc bánh da để mẹ
yên lòng.
Thế rồi anh
đi và đi mãi với khúc bánh da không trở về để mẹ tôi héo mòn chờ đợi lặng
thầm. Anh đã mất ở đâu, xác anh bây giờ cũng không ai biết được. Mẹ tôi đã đắp
cho anh một nấm mồ với tấm bia tưởng nhớ để khắc ghi rằng anh đã từng có mặt
trên cõi đời này và rất yêu mẹ.
Và
cứ thế thời gian cứ trôi đi và nỗi nhớ con của mẹ tôi cứ chất chồng
tháng ngày. Cứ mỗi lần đến ngày giỗ anh (lấy ngày anh ra đi chứ không rõ anh
mất ngày nào) mẹ đều làm mấy khúc bánh da cúng con. Rồi mẹ khóc, mẹ kể về những
vui buồn của khúc bánh da, hương vị quê hương. Mẹ cứ lẩm bẩm mấy câu này khiến
tôi thuộc lòng:
Quê tôi ở
chốn An Lương
(một
xóm nhỏ ở Phước Trạch – Hội An).
Vì giặc đánh
phá mới tìm đường đến đây.
Ngồi buồn kiếm
chuyện giải khuây.
Bánh da, bánh ít,
bánh dày tôi mần luôn
( mần
là từ địa phương của quê tôi có nghĩa là làm, sản xuất )
Đó là mấy vần thơ
của cha tôi “tức cảnh tản cư mà sinh tình!” Đi tản cư khó khăn, cùng túng,
cha phải lấy nghề bánh gia truyền của mình ra làm kế sinh nhai (mẹ tôi bảo
vậy). Cha tôi làm các loại bánh rất khéo mà khéo nhất là những khúc bánh da. Mẹ
kể rằng khi cha làm bánh, anh Năm tôi còn nhỏ thế mà đã giúp được cha giã bột .
Vậy nên mỗi lần làm khúc bánh da là mẹ lại càng nhớ anh da diết : “Giá mà còn
thằng Năm thì nó giã bột giỏi phải biết”. Mẹ tôi cứ lẩn thẩn như vậy. Thương mẹ
tôi phụ giúp người để có những khúc bánh da hằng năm giỗ anh tôi.
Lúc nào, mẹ cũng
dành những thúng nếp ngon thơm lừng để làm bánh. Tôi rang nếp cho thật vàng
giúp mẹ, rồi hì hục giã nó một buổi có khi cả đêm trăng lên nhìn rõ vào tận cối
đá (ở quê tôi hồi ấy không có máy xay nên phải giã cối đá). Nếp rang đã thơm,
giã thành bột lại càng thơm hơn đến nỗi chỉ ăn cái bột nếp này cũng ngon chứ
chưa nói đến ăn khúc bánh da. Nói vậy chứ ăn khúc bánh da thì ngon phải biết !
Giã nếp thành bột xong tôi cân ký. Cứ một ký bột nếp rang thì thén một bát rưỡi
đường (bát đường là bánh đường nứa đun sôi đổ thành từng bát) nữa để trộn. Tuỳ
thích ngọt hơn thì thêm độ ¼ bát đường nữa để thén. Thén đường làm bánh da cũng
rất công phu. Đường sôi phải cho lửa riu riu, từ từ cho đến khi đường sên lại
dính đũa thì cho cối gừng đã giã mịn vào đảo đều. Mùi thơm của đường khi tới
quyện với mùi thơm của gừng theo gió mà bay thơm cả làng. Nghe mùi thơm là biết
nhà này đang thén đường làm bánh da. Công đoạn tiếp theo là trộn đường và bột
nếp, cho thêm một lon đậu phộng, mè rang vào và ra sức nhồi, nhồi mãi cho đến
khi cả 4 vị : bột, đường, đậu, mè hoà nhập làm một và thành một cục bột dẽo thì
bắt bánh. Bắt bánh phải thật khéo tay bánh mới tròn đẹp được như người ta
thường nói “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Cứ bốc một cục to rồi lăn tròn trên
bột nếp khô cho thật tròn đều cân phân như cái ống gạt thóc là đẹp. Bánh da mới
ra lò thì rất mềm dẽo, dễ cắt từng lát ra dùng hoặc cầm cả đòn bánh (đòn bánh
từ dùng ở quê tôi) mà cắn ngấu nghiến. Ăn bánh da mà húp được ngụm chè tươi
xanh thì không gì thú vị bằng. Bởi cái ngọt ngọt, thơm thơm, cay cay, béo béo
của bánh lại cái chát chát của chè xanh thì vị giác phải khoái!
Ở quê tôi ai cũng
làm bánh da trong ngày Tết vì tất cả vật liệu đều tự sản xuất mà có (đường,
nếp, đậu phộng, mè, gừng) có nhà làm cả thúng bánh da để cúng ông bà sau đó ăn
lai rai cho đến ra giêng. Muốn để bánh da được lâu thì phải “thén đường cho
tới”có nghĩa là thén đường phải kỹ, lại phải vùi những khúc bánh da vào thúng
bột nếp để ở nơi khô ráo.
Đó là cách chế
biến và bảo quản bánh da theo kiểu dân gian ngày ấy chứ làm gì có tủ lạnh như
bây giờ. Cả làng ăn bánh da cả tháng giêng mà không biết ớn . Cứ nhà này ăn thử
bánh của nhà kia vài lát rồi so sánh bánh của nhà ai ngon hơn. Bánh nhà nào
được khen ngon thì phỗng mũi, còn bị chê thì mặc kệ có bánh da ăn là quý rồi!
Bây giờ thực
phẩm ê hề, bánh trái nội ngoại đủ kiểu nhưng tôi và những
người dân quê tôi vẫn mãi thấy vị đậm đà của những khúc bánh da.
Khúc bánh da đã
trở thành kỷ niệm của riêng mẹ, của tôi và cả làng tôi. Ai không thích bánh da,
không làm được bánh da để ăn thì không phải người làng, lại càng không phải là
con người yêu thương gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi nghĩ vậy
khi lẩn thẩn nghĩ về quê tôi, nhớ khúc bánh da của mẹ, nhớ da diết người anh
cùng khúc bánh da đi biền biệt không về.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét